Thứ Tư, 16 tháng 10, 2013

Nhà cụ thì cụ cứ việc ở.



Chuyện của cụ bà Trịnh văn Bô về đảng phải ơn dân hay dân phải biết ơn đảng.
Nếu đảng, nhà nước cứ làm như thế này thì thống đốc Bình không phải bán vàng bình ổn giá, không phải đi vay nước ngoài. Lãnh đạo hiện nay của nhà mình không nhớ gì về lịch sử dân tộc các bạn nhỉ.

Cụ bà Trịnh Văn Bô (Hoàng Thị Minh Hồ) kể :“Trong Tuần lễ vàng tôi đóng góp 117 lạng vàng, trong đó tiền riêng của vợ chồng tôi là 103 lạng, còn tôi đưa cho bà mẹ chồng lúc đó đã 85 tuổi một thoi to nhất (14 lạng) để cụ ủng hộ quỹ. Rồi vợ chồng tôi đi vận động để mọi người ủng hộ thêm trên 1.000 lạng vàng nữa.
Tôi cứ tiếp tục những công việc như thế, như lo đài thọ cho Thường vụ gồm các ông Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt, Bùi Công Trừng... khoảng 15 người về ở nhà tôi.
Sau đó, ông Trường Chinh đi đón Bác Hồ về vào ngày 24/8/1945 và ở nhà tôi cho đến 27/9. Bác viết bản Tuyên ngôn Độc lập ở nhà tôi, số 48 Hàng Ngang. Suốt thời gian này gia đình tôi đài thọ hết từ ăn uống, tiệc tùng, may mặc, đi lại. Về sau, người Pháp người ta nói rằng “Bà Trịnh Văn Bô là Bộ trưởng Tài chính của Việt Minh”.
Cộng lại, cả tiền và vàng, gia đình nhà tôi ủng hộ cách mạng 5.147 lạng vàng.
"Cái quý giá nhất tôi nghĩ không phải là số tiền đó mà chính là việc chúng tôi đã bảo vệ lãnh tụ Hồ Chí Minh trong suốt một tháng ba ngày và cả Thường vụ đi về, làm việc ở nhà tôi mà không xảy ra sự cố nào."

Và đây là sự trả ơn:
Tháng 10/1987, đồng chí cố vấn Trường Chinh có mời ông Trịnh Văn Bô (ông Trịnh Văn Bô mất năm 1990) và bà Hoàng Thị Minh Hồ lên gặp. Nhà 34 Hoàng Diệu, ông bà Trịnh Văn Bô cho Thiếu tướng Hoàng Văn Thái mượn từ những ngày tiếp quản Thủ đô năm 1954 với thời hạn 2 năm ( 1954-1956), đến ngày Tổng tuyển cử đất nước thì trả.
Năm 1986, đồng chí Hoàng Văn Thái mất, Bộ Quốc phòng xây nhà cho các tướng lĩnh cao cấp tại Liễu Giai rất rộng rãi, khang trang. Gia đình tướng Hoàng Văn Thái được chuyển về Liễu Giai.
Ngày 1/6/1989, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười phê chuẩn việc trả lại nhà 34 Hoàng Diệu cho ông bà Trịnh Văn Bô. Ngày 10/7/1990, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo cũng có ý kiến nhất trí việc trả nhà cho bà Bô.
Nhưng mãi đến năm 1993, gia đình bà Bô vẫn chưa nhận được nhà. Cuối năm 1993, Thủ tướng Võ Văn Kiệt giao cho Phó Thủ tướng Phan Văn Khải ký quyết định trả nhà 34 Hoàng Diệu cho bà Bô.
Ngày 24/10/1994, có hẳn một cuộc họp giữa Bộ Quốc phòng, UBND thành phố Hà Nội và Sở Nhà đất thành phố Hà Nội quyết định trả nhà cho bà Bô. Thế mà gia đình bà Trịnh Văn Bô vẫn không nhận được nhà!?
Mãi 9 năm, phải 9 năm, bằng độ dài thời gian của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, gia đình bà quả phụ Trịnh Văn Bô mới được trở về ngôi nhà cũ của mình ở 34 Hoàng Diệu, với những giấy tờ về bằng khoán điền thổ của ngôi nhà mà gia đình bà đã mua từ trước cách mạng.
Và như nhiều người biết, để vào được chính ngôi nhà của mình sau những dằng dặc chầu chực xin xỏ, một việc mạo hiểm và vô tiền khoáng hậu đã diễn ra. Một người con trai đương đêm đã cõng mẹ vượt rào bí mật đột nhập vào chính nhà mình ở 34 Hoàng Diệu.
...Một số tòa báo ngay tinh mơ hôm sau, ngày 10/10/2003 lập tức nhận được tin đến 34 Hoàng Diệu có vụ nhảy dù chiếm nhà bất hợp pháp!
Đến nơi thấy cụ bà Trịnh Văn Bô, cái can chống hờ đỡ một bên người, mái tóc cước rung rinh trong nắng sớm cười hiền hậu giọng sang sảng: “Nào, mời các nhà báo lên nhà uống nước...”.
Các ký giả có mặt bữa đó đều phát hoảng. Hóa ra, người nhảy dù là bà cụ Bô mà bao nhiêu năm họ đã quá quen mặt! Chúng tôi tíu tít theo chân cụ lên nhà chuyện vãn một hồi rồi giải tán... Bởi có việc chi mà phải hỏi han với lại cật vấn.
 Những tờ giấy có những chữ ký cùng các dấu mộc đầy quyền lực đã kể ở trên ghi rất rõ cái việc hợp pháp của cụ ở nhà 34 Hoàng Diệu này.
 Nhà cụ thì cụ cứ việc ở.

Thứ Tư, 9 tháng 10, 2013

Vài nét phong thủy nơi Đại tướng an giấc ngàn thu


VÌ SAO TƯỚNG GIÁP CHỌN MŨI RỒNG -VŨNG CHÙA LÀM NƠI AN GIẤC NGÀN THU?
Lê Quốc Châu 

Đại tướng Võ Nguyên Giáp không những là một bậc vĩ nhân khi còn sống mà còn là một bậc thánh nhân khi đã qua đời. Việc đánh bại quân đội tối tân của các cường quốc năm châu như Nhật, Pháp và Mỹ, góp phần chia lại trật tự thế giới đã minh chứng hùng hồn ông là một bậc vĩ nhân khi còn sống. Việc chọn Mũi Rồng-Vũng Chùa nằm trung tâm của Trường Sơn Bắc, nơi có dãy Hoành Sơn hướng ra biển Đông và Thái Bình Dương rộng lớn làm nơi an giấc ngàn thu cho thấy, ông là một bậc thánh nhân khi đã qua đời.

Việc chọn Mũi Rồng-Vũng Chùa làm nơi an nghỉ vĩnh hằng thể hiện nhân sinh quan hơn người, cái tầm rộng lớn, cái tâm bao la của Đại tướng.

1. Về mặt phong thủy

Xưa nay các bậc đế vương, hiền nhân quân tử đều rất coi trọng thuật phong thủy trong xây nhà, chọn đất đóng đô, xây dựng đền đài, lăng tẩm, chọn đất an nghỉ vĩnh hằng. Theo thuật phong thủy phương Đông, một thủ đô bền vững, một ngôi nhà thịnh vượng, một khu lăng mộ phát lộc cho con cháu đều phải hội đủ 3 yếu tố: bối sơn, diệp thủy, hướng dương. Bối sơn = dựa lưng vào núi, diệp thủy = trước mặt là nước, hướng dương = hướng ra phía mặt trời, hướng ra biển lớn…

- Bối sơn: Việc Đại tướng chọn Mũi Rồng – Vũng Chùa, vùng đất ngọa hổ tàng long, voi chầu hổ phục, đầu dựa vào núi Hoành Sơn, một nhánh đâm ngang của dãy Trường Sơn Bắc hùng vĩ. Phía bắc là dãy nũi cao Tây Nghệ An, ở giữa là các dãy đá vôi Quảng Bình và vùng đồi thấp Quảng Trị, phía Nam là vùng núi Tây TT-Huế.

- Diệp thủy: Trước mặt lăng Đại tướng gần nhất là Vũng Chùa, xa chút nữa là biển Đông rộng 3,477 triệu km2, xa khơi là Thái Bình Dương rộng lớn, là APEC, là năm châu bốn biển. Mộ ông gối đầu vào dãy Trường Sơn Bắc ( đoạn sau sẽ lý giải vì sao ông không chọn Trường Sơn Nam). Chân của Đại tướng đạp lên 3 hòn đảo vững thế kiềng 3 chân: Hòn Yến, Hòn Gió, Hòn La; xa hơn là hai chân ông gác lên 2 quần đảo lớn Hoàng Sa và Trường Sa thân yêu của Tổ quốc.

- Hướng dương: Mũi Rồng-Vũng Chùa theo các sách dư địa chí có hướng đông nam, hướng xuống các nước Đông Nam Á biển đảo.

Việc chọn đất đóng đô của Quang Trung-Nguyễn Huệ, của các vua chúa nhà Nguyễn tại Phú Xuân thuận theo thuật phong thủy này.

Như vậy, việc chọn Mũi Rồng-Vũng Chùa là một lựa chọn tuyệt vời xét về mặt phong thủy.

Mặt khác, cũng theo phong thủy, người người Việt thương quan niệm rằng “tụ thủy tụ nhân”. Vũng Chùa là một vùng biển tụ thủy hiếm có. Việc các vua Hùng chọn đất Phong Châu-Phú Thọ, (ngã ba sông) để đóng đô  hay gần đây nhất, tỉnh Hà Tĩnh cũng chọn ngã ba bến Tam Soa để xây khu lăng mộ Trần Phú-TBT đầu tiên của đảng cũng theo thuật phong thủy “ tụ thủy tụ nhân”.

Xét về mặt phong thủy thì việc Đại tướng chọn Mũi Rồng-Vũng Chùa là việc không phải bàn cãi nữa. Nó quá đẹp, quá chuẩn. Bây giờ, chúng thử bàn đến yếu tố thứ hai, bên cạnh phong thủy, yếu tố quân sự.

2.  Về mặt quân sự

Vì sao Đại tướng chọn nơi an nghỉ là dãy Bắc Trường Sơn, chính giữa đất nước mà không phải là Nam Trường Sơn, nơi Trung Quốc đang giúp ta khai thác Bô-xít ở Tây Nguyên? Vì sao Đại tướng lại chọn ngọn núi Hoành Sơn, một nhánh đâm ngang của dãy Bắc Trường Sơn để an giấc, nơi có hàng vạn người Đài Loan-Trung Quốc (Tập đoàn Fomosa) đang làm việc trong KKT Vũng Áng? Nên nhớ tướng Giáp là một thiên tài quân sự, việc người chọn Mũi Rồng-Vũng Chùa không thể tách rời nhãn quan chính trị, quân sự lỗi lạc của ông. Có nhà văn Việt Nam cho rằng, vùng Đèo Ngang (Vũng Áng- Hòn La) là một tử huyệt về quân sự mà bao lâu nay Trung Quốc đã dòm ngó. Nếu chúng xâm lăng Việt Nam thì đây là vị trí bị tấn công đầu tiên để cắt đôi nước Việt Nam. Điều này không phải là không có lý. Có khi, Đại tướng ngầm chỉ con cháu lo về canh giữ vùng đất yết hầu này. Bởi vì, phía Bắc, chúng ta có 1400km đường biên giới giáp với Trung Quốc, từ Móng Cái đến A-pa-chải. Phía Nam, hàng vạn người Trung Quốc đang làm việc trong các mỏ Bô-xít Nhân Cơ, Tân Rai (Tây Nguyên). Ở chính giữa Tổ quốc, hàng triệu người Đài Loan-Trung Quốc thuê đất làm việc ở Vũng Áng ( Hà Tĩnh) nghe đâu lên đến thời gian 70 năm.

Tướng Giáp rất hiểu được việc đổi bạn thành thù năm 1979 ở biên giới phía Bắc. Tướng Giáp đã từng can gián chính phủ không được cho Trung Quốc khai thác Bô-xít ở Tây Nguyên dù trong bất cứ giá nào. Vì vậy, việc ông chọn Hoành Sơn làm nơi an giấc, xét về mặt quân sự là một lựa chọn rất đáng lưu ý.

Lê Quốc Châu

Đại tướng Võ Nguyên Giáp như tôi đã biết




Lê Phú Khải

Đầu năm 1994, tôi đang làm giảng viên cho một lớp bồi dưỡng nghiệp vụ của Đài Phát thanh tỉnh Sóc Trăng thì Tuất Việt TBT báo SGGP nhắn tôi cố về sớm để giúp anh đi Điện Biên, chuẩn bị bài vở nhân kỷ niệm 40 năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ ( 1954-1994).
Lúc tôi đứng chờ làm thủ tục để ra sân bay, có tiếng một người đàn ông đứng sau hỏi:
- Anh cũng biết đại tướng đi chuyến này à?
Tôi quay lại thì thấy một người đàn ông đeo lon thiếu tướng và sau ông là mấy vị đeo lon đại tá, cuối cùng là một cô đầm trẻ và rất đẹp, mắt xanh biếc. Thấy vị thiếu tướng mặt khó đăm đăm, nhìn tôi vẻ soi mói, tôi trả lời ông nửa đùa nửa thật: Có lẽ đại tướng thấy tôi đi chuyến này nên ông cũng đi (!). Sau câu trả lời của tôi, mấy vị quân nhân đứng đó đều tỏ ra bất bình. Có lẽ mấy vị ấy cho tôi là “phạm thượng” ! Sau này tôi mới biết, vị đeo lon thiếu tướng đó là ông Cao Pha, Cục phó Cục Quân báo, đã cùng Đại tướng chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên năm xưa. Các vị Đại tá kia đều là các cựu chiến binh ĐBP. Cô đầm xinh đẹp kia là Catherina, phóng viên nhiếp ảnh nổi tiếng Mỹ, tất cả đều đi tháp tùng Đại tướng trong chuyến máy bay lên thăm Điện Biên nhân sắp kỷ niệm 40 năm chiến thắng ĐBP.
Lúc lên máy bay thì rộng thênh thang. Chiếc Airbus hơn 70 chỗ ngồi này chỉ chở có vợ chồng Đại tướng Võ Nguyên Gíap, mấy vị tôi vừa gặp, ngoài ra còn mấy người khác là đạo diễn Trí Việt , quê Bến Tre, một trong ba người Nam Bộ dự trận Điện Biên năm xưa, nhà văn Triều Dương ở báo Văn nghệ, Hội Nhà văn và hai bố con một ông già. Đây là chuyến chuyên cơ đăc biệt do chính Tổng cục trưởng Hàng không Việt Nam Nguyễn Hồng Nhị lái chở vợ chồng Đại tướng lên thăm lại chiến trường xưa sau 40 năm chiến thắng Điện Biên Phủ. Những người đi tháp tùng là quân nhân và nhà báo thì không có gì đáng ngạc nhiên. Còn ông già để râu dài, đeo kính râm và người thanh niên đi cùng là ai khiến tôi phải đến hỏi. Ông cụ hóm hỉnh nói, tôi là Dư Văn Tư, đã 76 tuổi, là “tư lệnh một khẩu pháo” trong chiến dịch ĐBP (khẩu đội trưởng một khẩu pháo). Sau chiến dịch Điện Biên, cụ Tư ở lại làm công nhân nông trường Điện Biên và định cư ở chiến trường cũ này. Nay cụ về Hà Nội mổ mắt nên có anh con rể đi theo. Vì là chiến sĩ Điện Biên năm xưa nên cụ được ưu tiên mua vé để đi chuyến chuyên cơ đặc biệt này, nếu không phải nằm chở ở Hà Nội 3 ngày nữa vì lúc đó chỉ hàng tuần chỉ có 2 chuyến bay dân dụng HN-ĐBP. Vậy là tôi cũng là người được “ưu tiên” mua vé đi chuyên cơ này. Và, một điều thú vị là trên máy bay hôm đó có đến hai vị tư lệnh, một Tổng Tư lệnh của cả chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ và một “ tư lệnh một khẩu pháo”! Còn gì thú vị hơn cho một nhà báo mà trên một chuyến bay được gặp hai vị tư lệnh cùng một lúc như thế. Sau khi phỏng vấn “tư lệnh một khẩu pháo”, chụp hình vị tư lệnh râu dài, đeo kính đen và cậu con rể đi tháp tùng, tôi còn được biết địa chỉ của người cựu chiến binh này ở Phường Him Lam để “đến chơi làm ly quốc lủi” như lời mời của chủ nhân. Rời hàng ghế của “tư lệnh một khẩu pháo” tôi đến chào Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Gíap và phu nhân Đặng Thị Hà. Sau khi trình Đại tướng thẻ đặc phái viên báo SGGP, tôi nói: Thay mặt Tổng biên tập SGGP Vũ Tuất Việt, tôi kính mời Võ Đại tướng đến thăm tòa soạn báo dịp 40 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ. Đại tướng niềm nở cười. Tôi không ngờ lại thực hiện được lời mời của TBT Vũ Tuất Việt sớm như thế. Theo lời dặn của ông, sau chuyến đi Điện Biên tôi phải đến nhà riêng Đại tướng để mời dùm ông. Nhưng câu trả lời của Đại tướng phu nhân hôm đó làm tôi bất ngờ và suy nghĩ. Bà Hà nói: “ã là báo Đảng mời thì nhất định anh Văn phải tới !”.
Tôi rất bất ngờ về chữ “phải”. Sao lại có sự khiêm tốn đến quá mức như thế? Sao lại “phải” tới đôi với một vị tướng lừng danh thế gian này! Và quả thật sau đó Đại tướng có vô TPHCM, thăm tòa soạn báo SGGP khiến Tuất Việt rất phấn khởi.
Rời hàng ghế của Đại tướng, tôi đến ngồi bên cạnh cô đầm xinh đẹp. Cô này nói được tiếng Pháp bập bẹ như tôi. Qua cuộc đối thoại có sự “giúp đỡ” của tay chân, điệu bộ, tôi được biết cô là một phóng viên nhiếp ảnh tự do của Mỹ và vừa nhận 100 cuộn phim để sẽ chụp trong 1 ngày! Thời kỳ đó có một hãng phim ảnh quảng cáo, tiếp thị bằng cách biếu các phóng viên nhiếp ảnh nổi tiếng các nước 100 cuộn phim và phải chụp hết trong 1 ngày về bất cứ đề tài gì và gửi về cho họ. Sau đó họ sẽ tùy ý sử dụng những tấm ảnh đó và trả công cho các phóng viên.Catherine là một phóng viên đã nhận 100 cuộn phim như thế. Và, cô ta sang Việt Nam, chọn đề tài Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Sau này, các bức hình về Đại tướng được đăng trên các báo Phương Tây, kể cả ở Việt Nam, tôi đọc thấy tên Catherine ở bên dưới và nhận ra là các tấm hình ấy cô đã chụp trong chuyến đi đó. Cũng không ngờ tôi trở thành “địch thủ” của Catherine trong những ngày sau. Đó là ngày đầu tiên ở Điện Biên, các nhà báo chúng tôi đi theo tướng Gíap thăm lại chiến trường xưa. Khi thăm và làm việc với Bảo tang Điện Biên, tướng Gíap ngồi nói chuyện với cán bộ bảo tang, có cả Bí thư Tỉnh ủy Lai Châu dự. Ngày hôm đó cũng là ngày Catherine thực hiện chụp 100 cuộn phim, có nghĩa là phải bấm máy 3.600 lần trong ngày. Vì thế cô bấm máy liên tục.Tướng Giáp chỉ đi ba bước là cô bấm một kiểu ảnh. Có lẽ tướng Giáp biết chuyện này nên ông luôn miệng hỏi : “quelle couronne?” (cuộn thứ mấy rồi?). Khi tướng Gíap ngồi nói chuyện với cán bộ công nhân viên bảo tàng, tôi đứng sau, luồn tay đưa cái máy ghi âm ra phía trước để ghi âm lời ông nói, Catherine đã xông lên, giằng tay tôi ra để cô chụp cho đẹp. Tôi đâu có chịu, khi Catherine chạy lại phía trước thì tôi lại luồn tay đưa cái máy ghi âm ra. Cô ta lại chạy tới hất tay tôi ra. Chuyện giằng co như thế làm mọi người rất khó chịu, kể cả tướng Giáp.Tôi quyết định phải “dậy cho Catherine một bài học”, và cũng để chấm dứt cảnh giằng co này. Vì thế, lần thứ ba cô chạy đến giơ tay định làm như lần trước, tôi đã giơ thẳng tay, đánh mạnh vào cánh tay của cô, khiến cô phải kêu á lên một tiếng rồi lùi lại… Sự việc diễn ra quá nhanh và bất ngờ khiến mọi người sửng sốt, nhưng sau đó lại đâu vào đấy. Từ đó, các cú bấm máy của Catherine đều có hình tôi đứng sau, luồn tay ra phía trước cầm cái máy ghi âm đưa ra trước mặt đại tướng.
Tối hôm đó, chúng tôi lại sang nhà khách mà Tướng Giáp nghỉ để hàn huyên vì khách sạn các nhà báo chúng tôi thuê đối diện ngay với nhà khách Tướng Giáp ở. Đúng như tôi đã dự đoán, Tướng Giáp hỏi tôi: “Sao lại xử sự như vậy lúc ban chiều?”. Tôi đã trả lời vị tướng tài ba này rất “đúng lập trường”: Thưa anh Văn – Tôi bắt chước các tướng lĩnh đi tháp tùng Đại tướng, gọi ông là “ anh Văn” – Catherine là phóng viên một nước tư bản, cô ta chụp ảnh để bán lấy tiền, tôi là phóng viên Đài TNVN, tôi ghi âm để phát cho đồng bào cả nước nghe đài biết là Đại tướng nói gì về việc gìn giữ di tích ĐBP. Tôi và Catherine ‘égal’ (bình đẳng) trong việc hành nghề, cô ta làm như thế là coi thường người khác, tôi phải dậy cho cô ta một bài học. Hơn nữa, tôi cũng muốn nói với các đồng nghiệp Việt Nam của mình là: không việc gì phải sợ phóng viên nước ngoài cả. Tất cả đều bình đẳng!. Tướng Gip đã vỗ vai tôi nói: “Très bien!” (rất tốt).
Từ hôm đó trở đi, mỗi khi gặp tôi ở hành lang khách sạn mà chúng tôi thuê, Catherine đều đi né sang một bên, tránh đối diện với tôi. Kể cũng tội nghiệp cho cô, một cô gái đẹp (!). Tấm hình Trí Việt chụp cho tôi và Catherine khi ngồi trên máy bay chuyện trò vui vẻ tôi vẫn còn giữ đến bây giờ để “nhớ” một kỷ niệm … không vui trong đời làm báo.
Thế là trong suốt ba, bốn ngày ở Điện Biên, tôi và các đồng nghiệp luôn ở bên Tướng Giáp, từ sớm cho đến chiều tối để đi thăm các chiến địa xưa: đồi Him Lam, đồi D1, A 1, nghĩa trang liệt sĩ dưới chân đồi A1, các tượng đài mới dựng lên ở Điện Biên v.v., tối về lại quây quần bên ông ở nhà khách để hỏi han, ghi chép. Có một sự kiện như là một điểm nhấn của chuyến đi năm đó là khi Tướng Gíap và chúng tôi vào thăm lại hầm De Castries, Đại Tướng xem rất kỹ di tích này. Bất chợt ông chỉ tay vào sát bức tường của một ngách hầm và hỏi: “ cái étagère lớn của De Castries ở chỗ này đâu rồi?”. Không ai trả lời. Đại tướng hỏi lại lần nữa, vẫn không ai trả lời. Đại tướng lại hỏi một lần nữa, nói gần như quát (!). Tôi vội đỡ lời : Đại tướng hỏi cái giá sách của De Castries ở đây bây giờ đâu rồi?. Có tiếng đáp ngập ngừng: Thưa… đốt rồi ạ !!!. Tất cả lại lặng im . Đại Tướng căn dặn phải giữ gìn tất cả những hiện vật của trận Điện Biên năm xưa. Nhưng “điểm nhấn” là câu hỏi cuối cùng của ông: “ Hầm tướng giặc thì được ta tạo làm di tích lịch sử để thăm quan, còn hầm của tướng ta thì bây giờ ra sao? Nhân dân sẽ hỏi các đồng chí, hầm của tướng ta đâu, không lẽ chỉ có hầm tướng giặc thôi à?”. Tất cả mọi người có mặt trong hầm De Castries hôm đó đều lặng đi. Mọi người thấy đại tướng nói đúng quá, có lý quá!.
Sáng hôm sau người ta tổ chức để Đại tướng đi thăm lại hầm Tổng Tư lệnh chiến dịch ĐBP ở Mường Phăng, cách thung lũng Điện Biên 10 km đường chim bay, đi đường bộ mất 25 km, nhưng đường bộ đã bị “lãng quên”, hư hại, xe ô tô đi rất khó khăn. Nghe tin Đại tướng đi Mường Phăng, sáng sớm hôm sau hai phóng viên Hãng Truyền hình Nhật Bản đã thuê 1 xe U-Oát lên đường từ sớm. Catherine cũng đã thuê được một xe đi từ sớm. Tôi không có tiền thuê xe đành bám theo Đại tướng để xin đi trực thăng. Nhưng thật “đau khổ”, trực thăng của quân khu nổ máy mấy lần mà cánh quạt vẫn… đứng yên (!). Người ta phải đem kìm, búa ra chữa. Tiếng búa đập vang dội cả một góc rừng (!), vậy mà máy bay trực thăng vẫn ì ra, không chịu nhúc nhích cánh quạt (!). Đến quá trưa vẫn chưa chữa xong máy bay (!), trong khi đó thì đồng bào Mường Phăng đã dậy từ sớm chờ Đại Tướng lên thăm ! Nản quá, tôi về khách sạn nằm, đọc tiếp cuốn “Lịch sử Đảng bộ Điện Biên” do Phó Ban Tuyên huấn Huyện ủy Ngô Phong, người biên soạn cuốn sch tặng tôi hôm trước.
Đến 2 giờ chiều thì máy bay trực thăng của không quân từ Hà Nội bay lên, và đến 4 giờ chiều hôm đó thì đồng bào Mường Phăng hân hoan đón Đại tướng.
Nguyễn Trí Việt, dân Bến Tre dự trận ĐBP, anh là Chính trị viên Đại đội xung kích 245, Tiểu đoàn 11 Phủ Thông, Trung đoàn 141 Ba Vì, Đại đoàn 312, từng chỉ huy kéo pháo vào kéo pháo ra ở ĐBP năm đó. Từ sớm hôm đó anh đã thuê được một chiếc mô tô Minsk, thứ xe mô tô do Liên Xô sản xuất leo đồi rất tốt để lên Mường Phăng. Anh kể, từ sáng sớm đồng bào Mường Phăng đã tập hợp trên một bãi đất rộng mà xưa kia Đại Tướng từng duyệt binh sau chiến thắng Điện Biên để đón Đại tướng. Nhiều người mang theo trứng gà và mật ong để biếu Đại tướng. Đồng bào đã kiên trì đứng từ sáng tới 4giờ chiều dưới nắng để chờ, ai cũng sợ bỏ đi thì không kịp quay lại để nhìn thấy đại tướng. Hai phóng viên truyền hình Nhật Bản đã đứng cả ngày, cởi áo để che nắng cho máy quay phim chở Đại tướng đến là bấm máy… Trí Việt nói một hơi rồi anh vén quần lên , chỉ vào vết thương ở đầu gối nói: Tao ngồi sau xe Minsk, gặp cái ổ gà lớn quá, xe sóc, văng tao té xuống đất, đầu gối va vào cục đá, máu túa ra… Vậy là hai lần tao bị thương trong đời đều ở Điện Biên, cách nhau 40 năm, trước là ở đồi Him Lam, sau là trên đường vào Mường Phăng!
Vậy là cho đến năm 1994, khi bước lên chiếc chuyên cơ đi Điện Biên, thấy vợ chồng Tướng Gíap ngồi thủ thỉ nói chuyện với nhau ở hàng ghế giữa máy bay, người am hiểu chính trường ở Việt Nam mới hết lo cho số phận của ông tướng nổi danh cả thế giới này.
Vì, các đối thủ nổi danh của ông đã chết hết, hoặc còn sống thì cũng không còn đủ thế lực để tác oai, tác quái với ông nữa. Những người yêu mến ông trong bộ máy quyền lực đã hết sợ ‘mang vạ” vào thân nên đã mỉm cười với ông. Hiển nhiên là ông đang ngồi trên chuyến chuyên cơ này để về thăm lại chiến trường xưa.
Kể từ sau 1975, khi Lê Duẩn, Lê Đức Thọ nắm toàn bộ quyền lực trong tay thì số phận của“ Vainqueur de ĐBP” (người chiến thắng ĐBP) như báo chí Phương Tây thường gọi là vô cùng cay nghiệt. Nhất là từ sau Đại hội Đảng lần Thứ 5, ông bị loại hẳn ra khỏi Bộ Chính trị, cho đến năm 1983 được Hội đồng Bộ trưởng phân làm “ Chủ nhiệm Uỷ ban Quốc gia Dân số và Sinh đẻ có kế hoạch”, thì sự cay đắng đã được đẩy đến tận cùng.
Nhưng ông đã tôn thờ chữ “ nhẫn” để tồn tại và… thời gian đã ủng hộ ông.
Tôi nhớ, vào đầu năm 1991, một nhân vật của kịch Lưu Quang Vũ trên sân khấu nói một câu rất bình thường: - Vậy là những kẻ khốn nạn cuối cùng cũng phải chết! Cả rạp đã vỗ tay rần rần. Đó là khán giả Hà Nội đã vỗ tay mừng cho Tướng Giáp vì năm 1990 “ kẻ khốn nạn” luôn hãm hại Tướng Giáp vừa qua đời.
Trong suốt một thời gian dài tôi đã đọc biết bao thông tin về sự trù úm, hãm hại Tướng Giáp. Người ta hãm hại ông không phải vì sợ ông tranh quyền, cướp vị mà vì sự tồn tại của ông làm lu mờ họ. Khi ông là Đại tướng thì có kẻ mới là viên đại tá vô danh. Vì thế, dù có mưu mô cơ cấu cấp dưới của ông lên đến vị trí cao ngất thì cũng không thể vì thế mà tỏa hào quang. Thôi thì, bôi đen hào quang đi vậy ! Vụ án “ Bà Sáu Sứ” do Tổng cục II dựng lên là một âm mưu bôi đen không thành đối với Tướng Giáp. Nhờ một ông họ Võ khác là Võ Viết Thanh đã hành động theo lẽ phải và đạo lý…Sẽ còn nhiều bút mực đổ ra để các nhà sử học sau này bàn luận về cuộc đời và sự nghiệp của Võ Nguyên Gíap.
Tiến sĩ Nguyễn Xuân Tụ, hiệu là Hà Sỹ Phu đã có bài thơ tặng Đại Tướng nhan đề:
Trăm năm nguyên giáp
Tính sổ trời cho đã bách niên
Thử cân hạnh phúc với ưu phiền
Tiếc trang độc lập còn dang dở
Thương chữ quyền dân chửa đáp đền
Một đời ái quốc văn thành võ
Chưa cởi chiến bào giáp vẫn nguyên
Nhưng cũng có người đưa ra ý kiến rằng, với Võ Nguyên Gíap thì lịch sử có những “tiêu chuẩn riêng của nó”. Tôi hiểu tác giả viết trên trang mạng Bauxite này muốn nói, độc lập phải đi liền với tự do và dân chủ.
Riêng tôi, chỉ muốn cung cấp cho bạn đọc những điều mắt thấy tai nghe về những điều trắng trợn đến vô lý mà người ta đã đối xử với Đại tướng. Những điều mà chỉ có thể xầy ra trong một thể chế độc tài, chuyên chế của một vài cá nhân mà thôi. Và, trong một thể chế như thế thì dù một người có tài, có đức, hào quang cùng mình như Võ Nguyên Gíap vẫn không thoát được hiểm họa. Một thể chế đem đến bi kịch cho tất cả mọi người.
…Vào những năm tám mươi ở Tiền Giang, Giám đốc xí nghiệp dược liệu Quân khu 9, trong đó có Trại nuôi rắn Đồng Tâm nổi tiếng khắp vùng là Trần Văn Dược, tức Tư Dược. Một lần Đại tướng đến thămTrại rắn Đồng Tâm, phóng viên nhiếp ảnh của Phân xã Tiền Giang là anh Thái, sau cuộc viếng thăm của Đại tướng, có đem một tấm hình Đại tướng và Tư Dược phóng to để biết Trại Đồng Tâm làm kỷ niệm. Tư Dược đem tấm hình ấy trưng bày ở phòng khách của Trại. Cái tin này đã được báo về Quân khu 9.Lệnh của Quân khu đưa về là Tư Dược phải cất gỡ cái hình đó xuống (!). Tư Dược gỡ xuống và đem về phòng làm việc riêng của mình treo. Ông tuyên bố: “ứa nào vào phòng ông gỡ tấm hình này xuống thì ông nổ sung liền!” Khi tôi đưa nhà báo Hữu Thọ - Báo Nhân Dân và nhà báo Thái Duy – Báo Đại Đòan kết đến Trại rắn tham quan, Tư Dược kể lại chuyện này với hai nhà báo ở Trung ương. Thái Duy, tức nhà văn Trần Đình Vân, tác giả cuốn sách “ Sống như Anh” viết về anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi – đã nổi nóng đập bàn quát : “Đứa nào ra cái lệnh ấy, anh nói tên nó cho tôi, tôi sẽ đưa nó lên mặt báo!”
Khi tôi đưa đoàn cán bộ biên tập của Nhà xuất bản Trẻ Thành phố HCM xuống tham quan Trại rắn nhấn cuốn sách “Rắn độc trong tay người” của tôi viết chung với một người bạn, được Nhà xuất bản Trẻ phát hành viết về người giám đốc tài ba này thì… ông vừa bị cách chức. Tôi kể lại câu chuyện tấm hình có hình Đại tướng… mọi người đã khuyên tôi: là một nhà báo anh phải ghi chép để viết về câu chuyện bẩn thỉu này!
Trước lúc ra đi, Tư Dược có nhắn tôi và nhà báo Hải Bình ở Phân xã Tiền Giang đến gặp ông… để trăn trối… về tấm lòng của một chiến sĩ với vị Tổng Tư lệnh của mình.
Ở tận phía Nam của Đất nước thì câu chuyện về Tướng Gíap là thế. Còn ở miền núi xa xôi Tây Bắc thì Ngô Phong tâm sự với tôi, dịp kỷ niệm 30 năm chiến thắng Điện Biên, anh nhận được chỉ thị là không được đón Đại tướng Võ Nguyên Gíap lên Điện Biên. Anh và các cán bộ lãnh đạo của huyện Điện Biên buồn lắm nhưng không biết làm sao cả. Vì thế, đợt kỷ niệm 40 năm này, không thấy có chỉ thị đó nên anh, với tư cách là Ban Tuyến huấn huyện Điện Biên đã về tận Hà Nội, đến tận nhà riêng Đại tướng để mời ông lên thăm lại chiến trường xưa. Ngô Phong là người rất “dễ thương” theo cách nói của Nam Bộ. Anh chính là con đẻ của chiến thắng Điện Biên Phủ theo đúng nghĩa “con đẻ”. Bố anh là bộ đội đánh trận Điện Biên sau đó ở lại xây dựng Nông trường Điện Biên và lấy mẹ anh là người Thái. Anh ra đời sau 1954. Đến dịp kỷ niệm này, anh cũng tròn 40 tuổi mụ! Anh cũng chính là người chấp bút cuốn “Lịch sử Đảng bộ Điện Biên” vừa mới phát hành nhân dịp 40 năm. Anh dẫn tôi đi nhiều nơi quanh huyện Điện Biên. Anh tâm sự, cán bộ tuyên huấn ở huyện vất vả lắm. Địa bàn củahuyện còn rộng hơn một tỉnh dưới xuôi. Có xã như xã Háng – Lìa chót đầu huyện, cách Mường Thanh, trung tâm của Điện Biên đến 93 km, và ….chỉ có thể đến đó bằng ngựa. Vậy mà anh vẫn phải tháng nào cũng đến thăm cán bộ, đồng bào ở một xã như thế. Anh cho tôi hay, các giáo sĩ đạo Tin Lành đã đến ở đó và giảng đạo thì cán bộ tuyên huấn phải đến tận nơi là đương nhiên. Anh rủ tôi ở lại để cùng anh lên thăm Háng Lìa, nhưng phải mất ba ngày đi bộ ròng rã !!! Ngô Phong còn kể cho tôi nghe nhiều chuyện cảm động ở Điện Biên. Như ở Mường Phăng, tuy là Nhà nước không có chủ trương (hay nói đúng hơn là những người ở trên cao muốn xóa đi mọi dấu tích về Tướng Gíap ), vậy mà nhân dân Mường Phăng vẫn tự giác giữ gìn di tích lịch sử này. Có cụ già đã 40 năm nay tình nguyện trông coi hầm chỉ huy của Đại Tướng, hàng ngày quét dọn, chăm sóc như nhà của mình.
Sau chuyến đi Điện Biên mùa xuân 1994, về đến Hà Nội, tôi có viết một cái tin cho Đài TNVN về chuyến trở lại Mường Phăng của Đại Tướng, nhưng Đài không phát. Và tôi còn được biết không có một đài báo của TW nào ở Hà Nội, kể cả Báo Quân đội Nhân dân cử phóng viên đi chuyến ấy. Vậy là còn thua cả tờ “Mực Tím” chuyên viết cho thiếu nhi ở TPHCM cũng cử phóng viên lên tận Điện Biên dịp đó.
Tôi đến tá túc ở Cơ quan đại diện Báo SGGP ở Hà Nội tại đường Lê Văn Hưu và viết ngay tin bài gửi về TPHCM như chỉ đạo của Tổng Biên tập Tuất Việt là “làm một vệt dài” về Điện Biên Phủ cho tới ngày kỷ niệm chính 7.5.1994. Tối hôm ấy thì nhà văn Triều Dương lò dò tới. Anh nói với tôi với vẻ mặt rất nghiêm túc: Ông Văn – tức Đại tướng – bảo tôi đến dặn anh rằng, Đại tướng rút lui ý kiến hôm chỉ đạo về cái tượng hai người phụ nữ ở Điện Biên. Anh về Sài Gòn khi viết nhớ là không đưa ý kiến đó của Đại tướng vào bài viết. Tôi hỏi Triều Dương vì sao vậy, hôm đó Đại tướng nói rất mạnh mẽ, quyết liệt cơ mà! Triều Dương nói: Nhưng vè đến Hà Nội ông Văn biết được rằng Bộ Chính trị đã duyệt cái tượng đó rồi, nên ông rút lui ý kiến đó. Ông Văn dặn tôi, nhớ dặn kỹ cậu Phú Khải đề nó đừng viết cái ý đó. Trước khi ra về, Triều Dương còn bảo tôi: Tôi đi đến đây chỉ có mỗi việc đó, anh nhớ đừng quên.
Tôi nhớ lại, lúc đứng trước cái tượng đài khá lớn, dựng hình tượng hai người phụ nữ, một người mặc áo cánh, búi tóc, tượng trưng cho phụ nữ Đồng bằng Bắc Bộ, đứng sát là một phụ nữ chít khăn phiêu, mặc áo của phụ nữ dân tộc Thái, tượng trưng cho đồng bào các dân tộc Tây Bắc … Đại Tướng giận dữ nói: Tôi đã chỉ đạo các anh rằng, chiến thắng Điện Biên Phủ là công lao của cả nước. Cả nước chia lửa với Điện Biên Phủ, cả nước căng địch ra mà đánh nên chúng không thể điều quân đến cứu nguy cho ĐBP. Vì thế khi dựng tượng đài ở Điện Biên Phủ phải có hình ảnh của ba miền Trung – Nam – Bắc. Mai kia đồng bào Khu 5, đồng bào Nam Bộ… ra đây thăm Điện Biên, người ta hỏi hình ảnh của chúng tôi đâu trong chiến thắng này thì các anh sẽ trả lời làm sao? Điện Biện Phủ chỉ có công của Bắc Bộ và Tây Bắc thôi à?
Đại Tướng đã nói rất gay gắt: Tôi đã dặn kỹ các anh rồi sao không thực hiện , sao lại làm thế này? Tất cả các bộ ngành bảo tàng ở Điện Biên lúc đó đều có mặt nhưng không ai nói gì cả (!), không một lời giải thích, vì thế Đại Tướng càng tỏ ra giận dữ, xem như mọi người đã chống lại ông.
Vậy mà ….bây giờ Triều Dương đến…lại nói thế ….?
Đêm hôm đó tôi nằm thao thức mãi… nghĩ về sự cẩn trọng của Đại Tướng !. Bộ Chính trị là cái gì? Đại Tướng chỉ đạo như vậy là quá đúng với sự thật về chiến thắng Điện Biên Phủ, là công bằng lịch sử. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, tôi thấy Tướng Gíap có lý! Ông đã chịu quá nhiều những âm mưu thủ đoạn chĩa vào ông trong nhiều năm qua từ những “đồng chí” của mình. Chỉ một sơ suất nhỏ, người ta có thể vin vào đó để vu cho ông là chống lại tập thể Bộ Chính trị, chống đảng… và… và…
Nhờ có sự cẩn trọng đến từng... chi tiết… của đời sống mà ông mới tồn tại được đến cái ngày gặp lại đồng bào, đồng chí của ông ở Điện Biên Phủ như tôi đã thấy. Kể từ sau vinh quang chói lọi “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”, ông sống trong thiên la địa võng của những hiềm tị và mưu mô.Trên đỉnh cao thì bao giờ dưới chân nó cũng là vực thẳm. Đỉnh càng cao thì vực dưới chân càng sâu.Tướng Gíap đã đứng bên bờ vực thẳm đó biết bao tháng năm mà không bị nạn nhờ ông biết cẩn trọng. Ngay khi các đối thủ của ông không còn trên cõi đời này, nhưng ông hiểu rằng tay chân của họ còn đó. Ông thận trọng là có lý. Các cụ ta xưa nói “anh hùng đa nạn” là như thế. Tôi càng nhận ra điều này về sau khi kỷ niệm 50 năm chiến thắng ĐBP tôi lại từ Sài Gòn ra Hà Nội, được ông tiếp tại nhà riêng gần một tiếng đồng hồ, sau đó tôi lại lên Điện Biên… Nhưng bài tôi viết về ông và trận Điện Biên để kỷ niệm 50 năm chiến thắng ĐBP, tờ báo đáng phải đăng nhất là tờ QĐND mà tôi gửi tới thì lại từ chối không đăng (?!). Báo Cần Thơ số ra ngày 6.5.2004 đã đăng bài đó. Đó là bài báo tôi viết mất nhiều công sức nhất sau hai lần lên Điện Biên Phủ, hai lần gặp Đại Tướng, sau nhiều thời gian đọc hàng chục cuốn sách do ta và tây viết về trận ĐBP, sau nhiều lần gặp nhà văn Hữu Mai, người chấp bút các hồi ký của Tướng Gíap để hỏi chuyện…Tôi phải cám ơn Báo Cần Thơ và Tổng Biên tập Trần Huy đã đăng bài báo nhan đề “Võ công Điện Biên Phủ và thiên tài quân sự Võ Nguyên Gíap”. Đó là lần đầu tiên cụm từ “thiên tài quân sự” được gắn với tên tuổi Võ Nguyên Gíap mà đài báo, sách vở của chế độ từ trước đến nay vẫn “ thực hành tiết kiệm” với Đại Tướng.
Trong bài đó tôi viết: “… Công bằng mà nói, Tướng Gíap được chỉ huy một quân đội cách mạng sẵn sàng quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Sức mạnh vô địch của đội quân đó là lòng yêu nước nồng nàn và rực lửa căm thù. Căm thù bọn người đã đốt nhà, giết vợ con, cha mẹ họ, đã đày đọa cả dân tộc họ trong một thế kỷ ôm mối hận làm dân nô lệ, làm kẻ mất nước …Vì thế khi có thời cơ họ đã chiến đấu không tiếc xương máu để rửa mối hận đó ! Và, người chỉ huy đội quân không tiếc xương máu đó lại là người biết tiết kiệm từng giọt máu của đồng đội, biết nuôi dưỡng sức mạnh từ việc chăm sóc bát cơm nóng cho quân lính dưới chiến hào. Những giọt máu hào hùng và những giọt máu được tiết kiệm …đã làm nên màu đỏ rực ánh mặt trời chiến thắng chiều 7.5.1954 ở ĐBP.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, Tướng Gíap đã thành công ở Điện Biện Phủ. Đó là những sư đoàn chân đất, như cách nói của giặc Pháp, biết dấu mình trong chiến hào đánh lấn, nương mình vào lòng đất mẹ quê hương để đương đầu với bom đạn sắt thép bạo tàn của kẻ thù mà đánh “trận địa chiến hào tấn công” chưa hề có trogn lịch sử quân sự. Đó là sáng tạo của những người du kích Đồng bằng Bắc bộ có kinh nghiệm đào hầm bí mần chống càn giữ làng, là cách đánh du kích chỉ Việt Nam mới có; người chỉ huy đề ra phương châm chiến lược, người lích đề xuất cách đánh đào xuyên hàng rào kẽm gai. Đó là dân chủ Điện Biên Phủ! “Trận địa chiến hào xiết vòng vây lửa” ở Điện Biên Phủ là võ công hiển hách của quân dân ta ở thế kỷ 20. Là một cống hiến cho khoa học lịch sử quân sự thế giới, là thiên tài quân sự Võ Nguyên Gíap, là “thiên biến vạn hóa” của tư tưởng quân sự cha ông ta được vận dụng ở thời đại Hồ Chí Minh.
Thông thường trong chiến tranh, phía tấn công phải có lực lượng gấp 5 lần trở lên so với phía phìng ngự. Nhưng so sánh lực lượng hai bên ở Điện Biện Phủ thì thấy: ban đầu địch có 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, gồm phần lớn những đơn vị tinh nhuệ nhất. Địch còn có hai tiểu đoàn pháo 105 ly, 24 khẩu, 2 tiểu đoàn sung cối 120 ly 20 khẩu, 1 đại đội pháo 155 ly 4 khẩu, 1 đại đội xe tăng 18 tấn 10 chiếc. Không quân thường trực tại sân bay có 7 khu trục, 5 trinh sát, 4 vận tải và 1 trực thăng . Ngoài ra 2/3 lựclượng máy bay ném bom tiêm kích và 100% máy bay vận tải toàn Đông Dương yếm trợ cho Điện Biện Phủ .Tổng quân địch ở Điện Biên Phủ là 12.000 người. Lực lượng ta có 9 trung đoàn bộ binh ( 27 tiểu đoàn), 1 trung đoàn sơn pháo 24 khẩu, 2 tiểu đoàn lựu pháo 105 ly 24 khẩu, 4 đại đội sung cối 120 ly 16 khẩu, 1 trung đoàn cao xạ pháo 37 ly 24 khẩu, 2 tiểu đoàn công binh . Ta hơn địch về số tiểu đoàn (27/12) nhưng quân số mỗi tiểu đoàn của ta chỉ bằng 2/3 mỗi tiểu đoàn của địch. Ta cũng hơn địch về số lượng pháo (64/48) nhưng đạn pháo dự bị của ta lại rất hạn chế. Ta không có xe tăng và chỉ có 1 trung đoàn pháo cao xạ 37 ly để đối phó với toàn bộ không quân địch ở Đông Dương. Xét toàn cảnh ta vẫn ở vào thế yếu đánh mạnh.
Nhưng ta chủ động tấn công, tự quyết định đánh hay không đánh, chủ động lựa chọn điểm đánh và thời gian đánh. Đánh hay không đánh đều có lợi cho ta vì đương nhiên ta đã kìm chân được một lực lượng lớn địch ở đây để giành được thắng lợi trên nhiều chiến trường Đông Xuân 53-54. Địch ở Điện Biên Phủ tuy mạnh, nhưng bị nhốt trong các cũi thép gai và hầm hố một cách thụ động, không thể đem toàn bộ sức mạnh để đánh trả, cứu nguy cho một cứ điểm bị tấn công. Ta đem toàn bộ sức mạnh để đánh môt điểm ta bao vây chia cắt địch ra mà đánh dần, linh hoạt và cơ động hoàn toàn. Như vậy nếu xét trong một trận đánh vào một vị trí nhất định, trong một thời điểm quyết định , thì ta vẫn mạnh hơn địch. Mạnh sẽ thắng yếu. Tài thao lược của Tướng Gíap là ở chỗ phân tích sắc bén thế và lực trong những tình huống cụ thể ở Điện Biên Phủ để tìm ra cách đánh thích hợp, “ đánh chắc tiến chắc” để đi đến đại thắng ! Đó là gì nếu không phải là biện chứng pháp quân sự Macxít.
Một Việt kiều ở Pháp có tâm sự với người viết bài này… Ông ta được một sử gia Mỹ cho hay: Ngay cả Napôlêông khi bước vào đường binh nghiệp thì đã có sẵn một đội quân để chỉ huy. Tướng Gíap phải xây dựng quân đội từ mấy chục người thành những binh đoàn để lần lượt đánh thắng nhiều danh tướng của cường quốc Pháp như Đờ Lát, Xa Lăng cho đến Na Va ở Điện Biên Phủ… điều đó chưa thấy trong lịch sử quân sự thế giới… Và đây cũng là lần đầu tiên một nước nhỏ đã đánh thắng một đế quốc hùng mạnh, mở đường vùng lên cho các dân tộc đang bị nô lệ.”.
… Võ Nguyên Gíap là người lẽ ra “đã chết từ lâu rồi” với những hiềm tị, ganh ghét của các “ đồng chí” của ông. Nhờ ông biết tôn thờ chữ “ nhẫn”, nói đúng hơn là “nhẫn nhục” để sống đến hôm nay. Nhà văn Trần Đình Hiến, từng 10 năm làm tham tán văn hóa tại Đại sứ quán ta tại Trung Quốc, dịch giả hàng đầu các tác phẩm văn học Trung Quốc đương đại sang Tiếng Việt của các tác giả như Mạc Ngôn, Gỉa Bình Ao, Vệ Tuệ v.v. trong một quán càfê gần trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam ở đường Nguyễn Đình Chiểu, Hà Nội, sáng ngày 16/4/2013 vừa qua, có cả bác sĩ, tù nhân lương tâm Phạm Hồng Sơn và tôi cùng ngồi đàm đạo, ông đã kể: - Sau chiến tranh biên giới với Trung Quốc 1979, tên Trọng Hy Đông ở Uỷ ban Kiều vụ, Quốc vụ Viện TQ, hàm ngang bộ trưởng, sang Việt Nam để giải quyết các vấn đề hậu chiến tranh như tù binh v.v., ông được mời đến để phiên dịch cho cuộc làm việc giữa hai bên. Khi xe của Đại Tướng Võ Nguyên Gíap vừa đến cũng là lúc xe của Lê Duẩn vừa tới, Lê Duẩn đã chỉ vào mặt Võ Đại tướng và nói như quát: - Cuộc họp không có anh! Võ Nguyên Gíap nói: - Vậy tôi về. Thế là cụ Võ lủi thủi lên xe ra về. Kể đến đây nhà văn Trần Đình Hiến kết luận: Tôi không thể ngờ những người lãnh đạo tối cao của đất nước lại đối xử với nhau như xã hội đen như thế ! Nhất là lại công khai trước mặt tất cả mọi người!
Vô sản gắn liền với vô học là ở chỗ đó!
Đánh giá về cuộc đời và sự nghiệp của Võ Nguyên Gíap là một việc lớn, sẽ còn tốn nhiều giấy mực của các sử gia Việt Nam và thế giới. Việc đó dành cho các cây bút lớn! Riêng với tôi, một nhà báo nhiều lần được gặp Võ Đại tướng, trong nhiều trường hợp, kể cả gặp riêng tại nhà riêng của ông ở 30 Hoàng Diệu, Hà Nội, gặp một thời gian dài trong chuyến ông lên thăm ĐBP sau 40 năm chiến thắng ( 1994)… rồi lại đọc kỹ các hồi ký của ông do nhà văn Hữu Mai chấp bút, đàm đạo với Hữu Mai, đọc kỹ các tác giả nước ngoài viết về Điện Biên Phủ… tôi có nhận xét rằng, ông là một vị tướng biết tiết kiệm từng giọt máu của đồng đội để làm nên chiến thắng, chăm lo cho binh lích của mình từng từng miếng cơm nóng trong bữa ăn ngay giữa chiến trường máu lửa. Ông là con người võ mà văn – văn mà võ!
Về tác phong, cái con người được báo chí Phương Tây gọi bằng cái tên “ Vainquer de Điện Biên Phủ” ( kẻ chiến thắng ĐBP) lại là một người có tác phong rất Tây, nói rất Tây, ăn rất Tây… Những ngày tháp tùng ông năm 1994 đi thăm lại chiến trường xưa sau 40 năm… lâu lâu tôi lại thấy người sĩ quan tùy tùng của ông đưa cho ông một quả chuối và một hộp pho-mai… ông điềm tĩnh bóc chuối và lấy khoanh pho-mai ra ăn trước đông đủ cử tọa rồi lại tiếp tục làm việc. Tấm hình chụp Đại Tướng đang ăn chuối với pho-mai trước mọi cử tọa, tôi vẫn còn giữ đến bây giờ, xem nó như một cú bấm máy “đáng tiền” trong đời làm báo của tôi! Ăn chuối với pho-mai cho người già sức khỏe tốt, có lẽ vì thế mà Đại tướng sống đến trăm tuổi. Tôi xin mở ngoặc ở đây để chứng minh điều tôi nói. Một lần, trong một ngày hội đua ghe ngo truyền thống của đồng bào Khơ-me ở Sóc Trăng, trước cuộc đua có tổ chức biểu diễn lướt ván của vận động viên từ TPHCM xuống góp vui.Người ta giới thiệu có một vận động viên đã trên 70 tuổi tham dự.Mọi người đã sửng sốt về tài nghệ lướt ván của vận động viên U80 này. Tôi phải len xuống sông để gặp ông, ông cho biết, nhờ ăn chuối với pho-mai… trừ bữa nên “khỏe là vậy”!
Lại nói vể tác phong “rất Tây” của Đại Tướng, khi giao tiếp, để phụ trợ cho lời nói, ông thường nheo mắt , nhún vai, khoát tay…, khi cần chọn một từ dùng cho thật chính xác, ông thường dừng lại, suy nghĩ ít giây, và chen vào đó một từ Tiếng Pháp (!). Người Pháp có câu ngạn ngữ tự hào về tiếng nói của mình: “cái gì không trong sáng không phải là Tiếng Pháp”! Có lẽ ông bị “ảnh hưởng” về sự trong sáng ấy của Tiếng Pháp chăng ? Nhưng người có tác phong rất Tây ấy lại là người Việt Nam đánh Tây cấp… đại tướng. Nếu cứ xét, cứ nhìn theo “con mắt giai cấp” thì ông Gíap là người có vấn đề. Và buồn thay, người ta đã lợi dụng sự ngu ngơ này của số đông để có lần, ở Đại hội Đảng lần thứ 6, tung ra tin “ông Gíap là con nuôi của một tên thực dân Pháp”!
Về tướng Gíap, tôi cũng có nhận xét, thử nêu ra để bạn đọc tham khảo: Ông Gíap “có đóng góp riêng cho môn ngôn ngữ học”! Tôi nghĩ vậy. Ông đã biến một danh từ chung của Việt Nam thành một danh từ riêng. Hiển nhiên là ở Việt Nam, nếu một ai đó nói: Tôi vừa được gặp đại tướng, thì người ta hiểu rằng người đó vừa được gặp ông Võ Nguyên Gíap, chứ không ai lại hiểu rằng anh ta vừa khoe được gặp ông Lê Đức Anh, ông Mai Chí Thọ, ông Lê Hồng Anh… mặc dù các ông ấy đều là đại tướng. “Đại tướng” từ một danh từ chung, đã trở thành một danh từ riêng trong ngôn ngữ của người Việt đương đại, chỉ để dành cho Võ Nguyên Gíap. Những ý kiến cho rằng, phải phong cho ông Gíap là Nguyên soái chỉ là những suy nghĩ chưa chín. Chỉ có nhân dân mới là người sáng suốt nhất khi đã biến một danh từ chung thành một danh từ riêng: “Đại Tướng”. Với người Pháp thì danh từ riêng “Điện Biên Phủ” lại được người ta biến thành một động từ chỉ hành động “đánh mạnh”, “đánh thật mạnh”, “đánh cho không còn mảnh giáp” v.v. và v.v. Danh từ Điện Biên Phủ biến thành động từ “dienbienphuer”. Cái đuôi “er” của Tiếng Pháp gắn vào chữ Điện-Biên-Phủ viết liền trở thành “đánh mạnh”! Nếu một vị sĩ quan Pháp ra lệnh: - Dienbienphuer, có nghĩa là… tấn công mãnh liệt vào đối phương ! Có lẽ chính vì thế mà nhân kỷ niệm 50 năm chiến dịch Điện Biên Phủ, ở Paris đã có một cuộc hội thảo lớn, có mời nhiều nhà sử học, quân sự, ngoại giao tên tuổi từ nhiều nước đến dự. Cuộc hội thảo đó có tên là “chia sẻ hồi ức Điện Biên Phủ”. Người Pháp có mời Việt Nam. Nhưng tôi xem trong danh sách đi dự cuộc hội thảo năm đó ở Paris (2004) của Việt Nam thì toàn là những nhân vật “vô danh tiểu tốt”, và …không có Đại tướng !
L.P.K.

Tố Hữu và bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên



…Mình hoan hô chiến sĩ Điện Biên, hoan hô ông Giáp. Lúc ấy, đại tướng võ Nguyên Giáp oanh liệt lắm. Người ra trận cơ mà. Một ông Tổng tư lệnh ra trận...
- Thế sao sau này, trong những tập tái bản gần đây, anh lại cắt câu ấy đi?...

I
Tố Hữu là một nhà thơ lớn. Nói đúng hơn, ông là nhà thơ lãng mạn cách mạng. Cả cuộc đời ông gắn bó với cách mạng. Thơ với đời là một. Trước sau đều nhất quán. Tố Hữu nhìn cách mạng bằng con mắt lãng mạn của một thi sĩ. Thơ ông dường như chỉ có một giọng. Đó là giọng hát tưng bừng ca ngợi cách mạng. Đọc ông trong bất cứ hoàn cảnh và tâm trạng nào, ta cũng thấy phấn chấn, náo nức như đi trẩy hội. Đến đâu cũng nghe vang tiếng trống, tiếng kèn. Mà thơ ông đâu chỉ có trống phách linh đình như một đám rước, ông còn bắn cả 21 phát đại bác vang trời. Cho đến nay, chỉ có ông là nhà thơ Việt Nam duy nhất đã bắn đại bác trang trọng như thế. Trong tâm hồn lớn lộng gió của ông không có những góc khuất, những vùng tối, những nẻo đường hiu quạnh, những thành quách nhàn nhạt một màu rêu cô liêu. Nghĩa là không có chỗ nương náu cho những nốt nhạc lạc điệu, xa lạ và trầm buồn. Đôi khi, những nỗi niềm vu vơ có ở thời Từ ấy lại lần theo một con đường riêng nhuốm màu thiên nhiên, chìm lẩn trong tiềm thức mà tìm về với ông, thì ông lại tự xoá đi, để tiếng hát ông chỉ còn một âm hưởng chủ đạo. Âm hưởng vui bất tuyệt.
Nếu mỗi nghệ sĩ là một người thư ký của thời đại, theo quan niệm Balzac, thì Tố Hữu chính là người thư ký của cách mạng. Thơ ông là biên niên sử cách mạng. Có thể lần theo dấu vết thơ ông mà tìm những bước thăng trầm của cách mạng, của kháng chiến. Chính vì thế, trong những ngày cả nước long trọng kỷ niệm 40 năm ngày chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, tôi tìm lại thơ ông, tra cứu thơ ông, như tra cứu một cuốn tự điển cách mạng. Tôi lật trang Điện Biên Phủ và lập tức lại gặp ngay tiếng reo vui tưng bừng quen thuộc của ông: Hoan hô chiến sĩ Điện Biên. Đây là bài thơ khá nổi tiếng của Tố Hữu. Bài thơ cung cấp cho ta nhiều con số và những tư liệu lịch sử. Qua thơ mà ta biết cuộc kháng chiến chống Pháp kéo dài ba ngàn ngày. Chiến dịch Điện Biên Phủ từ lúc mở màn đến khi kết thúc thắng lợi là 56 ngày đêm. Trong thời gian này, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đang ở Việt Bắc. Trên bàn làm việc dã chiến của Người có bản đồ Điện Biên Phủ. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đi hội đàm với Chính phủ Pháp ở Paris. Trưởng phái đoàn ngoại giao của Pháp là Biđôn (Bidault). Trưởng phái đoàn ngoại giao của Mỹ là Smit (Smith). Còn đại tướng Võ Nguyên Giáp thì dàn quân ở giữa trận tiền. Và bạt ngàn bộ đội, dân công đi tiếp lương, tải đạn, kéo pháo, mở đường. Lương thực, đạn được vận chuyển đến Điện Biên bằng hai phương tiện chính: thồ và gánh. Đời sống tinh thần của bộ đội và dân công ta ở cái thời ấy cũng được Tố Hữu ghi chép khá tỉ mỉ: người ta động viên nhau, thúc đẩy nhau bằng tiếng hát. Những điệu hò lơ, hấy lơ vang vọng khắp các triền đèo hiểm trở Lũng Lô, Pha Đin. Như thế, xem ra, việc chuẩn bị chiến đấu vất vả, gian khổ nhưng vui. Rõ ràng đi kháng chiến như đi trẩy hội. Còn khi đã chiến đấu thì thật ác liệt. Có thể nói đó là cuộc chiến đẫm máu. Người khoét núi đặt bộc phá. Người bịt lỗ châu mai. Người lấy thân chèn pháo. Và máu người đã nhuộm đỏ cánh đồng Mường Thanh. Máu trộn với bùn đất. Chỉ một chi tiết này, ta biết chiến dịch mở vào mùa mưa. Đó là một thử thách không nhỏ đối với người lính Điện Biên Phủ. Tất cả những tư liệu lịch sử có tính thông tấn báo chí ấy, đã được Tố Hữu biến thành tình cảm, giai điệu. Và bao phủ lên nó là một bầu không khí hừng hực. Bầu không khí Điện Biên.
Tố Hữu có đi chiến dịch không? Ông viết bài thơ này trong trường hợp nào? Lúc ấy ông ở đâu? Ông đang làm gì, giữ những trọng trách gì? Chiến thắng Điện Biên đến với ông ra sao? Đấy là những câu hỏi mà độc giả hôm nay tò mò muốn được giải đáp. Nhưng ai giải đáp nổi? Chỉ có thể là Tố Hữu. Và chúng tôi được giao một nhiệm vụ rất cụ thể: tìm đến gặp Tố Hữu, rồi lân la hỏi chuyện ông.
II
Chúng tôi tập kích vào nhà Tố Hữu, đúng theo cách tiếp cận của lính Điện Biên Phủ. Ngay lập tức nhà thơ lớn đã bị bốn anh em lính báo bao vây. Ngoài tôi và nhà phê bình Hồng Diệu, còn có thêm Khánh Chi, Trường Giang - hai phóng viên trẻ của báo Đại đoàn kết. Bây giờ thì Tố Hữu đã ngồi gọn giữa mấy anh em chúng tôi. Trông ông trầm tĩnh như một ngọn tháp cổ kính. Mà không, ông như một vị nguyên soái đã giã từ vũ khí, giã từ mọi thứ xiêm áo lỉnh kỉnh mà tạo hoá đã bỡn cợt khoác lên ông, nhiều khi che khuất cả chính ông, để ông chỉ còn lại là một già làng, có phần cô đơn, bé nhỏ, da mồi, mái tóc bạc trắng sương gió, dường như đã quá quen với trận mạc, với mọi biến cố, thăng trầm của cõi đời dâu bể. Lơ lửng ở đâu đó trong khoảng u u minh minh trên mái đầu ngả bạc của ông, hình như vẫn còn lung liêng, vẫn còn chao lắc cái con quay mờ mờ nhân ảnh của ông Trời. ý nghĩ ấy đến với tôi khi tôi đang thành kính ngắm ông như ngắm một viện bảo tàng. Còn ông thì ngồi im lặng. Đôi mắt riu riu nửa thức, nửa ngủ, có lúc lơ đãng vô vi như một người đang nhập thiền, có lúc lại ánh lên, long lanh sáng như mảnh thuỷ tinh vỡ. Vào những giây khắc mong manh đó, tôi chợt thấy ông vẫn còn là một vị tướng soái, với đầy đủ mũ áo cân đai. Còn bây giờ, ông có vẻ như hơi ngỡ ngàng. Ông đưa mắt nhìn lũ chúng tôi là mở chiến dịch rút lui quyết không dây với lũ trẻ ranh.
- Chuyện Điện Biên ấy mà, nói thực là mình biết không nhiều lắm đâu. Cái này các cậu phải đến gặp Hồ Phương, Hữu Mai, hay Từ Bích Hoàng. Các anh ấy đi chiến dịch Điện Biên, các anh ấy biết nhiều chuyện đấy.
- Chuyện Điện Biên thì bạn đọc cũng đã biết rồi, vừa qua mấy anh em làm báo đã sục vào hầm De Castries, còn lặn lội vượt đèo leo suối vào tận sở chỉ huy ta ở Mường Phăng. Anh Lê Lựu đã đến gặp đại tướng Võ Nguyên Giáp. Anh Hồng Diệu đã gặp ba thiếu tướng Hồ Phương, Chu Phác và Dũng Hà. Mấy anh em còn tham khảo cả tài liệu của Pháp nói về Điện Biên. Nghĩa là nhìn Điện Biên ở mọi góc độ khác nhau. Bây giờ, mấy anh em muốn hỏi anh về bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên.
Tố Hữu cười:
- Bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên thì cũng chẳng có gì phải nói thêm nữa. Mình đã viết cả ra rồi. Có gì cũng nói tuột ra hết. Thơ mình là thế, là cứ nói thẳng tuồn tuột, chẳng có gì khuất khúc cả.
- Vâng, bài thơ nói được nhiều điều lắm. Đầy ắp tư liệu thông tin. Nhưng có thông tin mà bạn đọc bây giờ tò mò muốn biết thì bài thơ lại không nói đến. ấy là thông tin về tác giả. Khi viết bài thơ này, anh đang ở đâu?
Tố Hữu ngồi im lặng. ánh mắt bỗng xa vợi. Hình như ông đang lục trong trí nhớ, cố tìm một hình ảnh nào đó, một bóng dáng nào đó của kỷ niệm xa mờ.
- Chịu, không thể nhớ được. - Tố Hữu quay về phía tôi. - Mình già rồi, u mê rồi. Có lẽ các anh ở cục tác chiến, quân bưu, các anh ấy nhớ, chứ mình thì quên mất rồi. Cái bản ấy, nó có cái tên là khau khau gì đấy. Hồi đó, mình là trưởng ban tuyên truyền. Suốt ngày chỉ hong hóng chờ tin tức từ chỗ anh Trường Chinh, hoặc lại chạy sang bên Bộ Tổng, Quân uỷ trung ương, chỗ anh Văn, hỏi xem có đánh nhau ở đâu thì viết bài tuyên truyền. Mà viết xong cũng chẳng biết đưa cho ai nữa. Hồi ấy, phương tiện tuyên truyền của ta còn nghèo lắm, sơ sài lắm, đâu có được phong phú như hồi chống Mỹ. Công cụ tuyên truyền chỉ có mỗi tờ báo Nhân Dân với cái đài 500 oát. Còn thì phần lớn là tuyên truyền mồm quan cánh dân công. Mỗi trận đánh thắng, tự thân nó đã có sức tuyên truyền rồi. Nó lan xa lắm, lan nhanh lắm. Còn chuyện Điện Biên thì sau này mới rầm rộ. Hò kéo pháo. Điện Biên bấy giờ im ắng lắm. Ta âm thầm chuẩn bị lực lượng. Không ai có thể nghĩ được rằng, ta lại có thể đưa được quân, đưa được pháo vào Điện Biên. Thực tế khách quan thì không thể làm được. Đường sá hiểm trở lắm, toàn những đèo dốc, vực thẳm. Gay go nhất là việc vận chuyển lương thực, thực phẩm. Cái này, phải nói là dân mình ghê gớm thật. Chỉ có đôi vai, đôi bồ, khá hơn cái xe đạp tồng tộc, mà rồi từ Thanh Hoá, từ đồng bằng Bắc Bộ mò mò đưa gạo lên. Hạt gạo nặng bằng hạt máu. Phải nói ý chí của dân mình rất ghê gớm. Họ nhịn đói, nhịn khát, ăn lá lảu dọc đường. Dừng nghỉ thì nói chuyện thịt bò, nói chuyện nướng chả, làm thịt cầy, cứ như mình đang liên hoan, đang ăn thịt, mà toàn ăn thịt... mồm.
- Vậy tin toàn thắng đến với anh lúc nào?
- Lúc ấy khoảng 5h30 hay 6h chiều ngày 7-5. Rừng đã nhá nhem tối mới có điện từ chỗ anh Trường Chinh xuống. Mình mừng quá. Cái chuyện Hoả tốc, hoả tốc - Ngựa bay lên dốc ấy là có thật. Đấy là con ngựa của chú liên lạc ở chỗ anh Trường Chinh. Và cũng chỉ có mỗi con ngựa với chú liên lạc, chứ làm gì có Đuốc cháy sáng rừng, với Làng bản đỏ đèn đỏ lửa. Khi viết thì mình viết thế. Viết thế mới tạo được không khí, chứ làm gì có lửa mà đỏ rừng đỏ bản. Thực tế lúc ấy, nhìn ra xung quanh, rừng núi tối mù mù. Chỉ có vài ngôi nhà ở triền núi xa xa có ánh lửa le lói, chắc họ đang nấu cơm hay nướng sắn gì đó. Thế mà mình viết: Đuốc chạy sáng rừng - Loa kêu từng cửa. Cũng chẳng có loa đâu. Mà loa với ai. Dân ở xa. ở gần dân e bị lộ. Nguyên tắc là bí mật tuyệt đối. Cơ quan trung ương ở trong rừng, ở giữa lau tre. Mình ở nhà đất. Anh Trường Chinh cũng ở nhà đất. Chỉ có Bác ở nhà sàn. Ông cụ có đặc tính là thích ở nhà sàn, và ở bên suối. Ông cụ vốn là người yêu sơn thuỷ hữu tình. Cơ quan trung ương cũng đóng dọc bên suối, lán chìm trong cây lá. Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù mà. Bí mật là một nguyên tắc. Vậy thì loa với ai. Thế mà vẫn loa kêu từng cửa. Làng bản đỏ đèn đỏ lửa. Hầy, nghe vui hỉ, nghe cũng rậm rật đấy chứ hỉ - Rồi Tố Hữu quay lại mấy anh em, nheo nheo một bên mắt, vẻ trẻ trung, tinh nghịch - Này xem ra không thể tin cánh văn nghệ được đâu hỉ. Phịa, toàn là phịa. Chỉ có điều là mình phịa như thật, nên người ta cũng tha cho.
Rồi Tố Hữu lại cười. Nụ cười thật hiền hậu. Trông ông lúc này có vẻ của một ông Phật, Hồng Diệu hỏi:
- Thế từ lúc mở màn đến khi kết thúc chiến dịch anh có lên Điện Biên bao giờ không?
- Không! Nào mình có biết Điện Biên ở đâu mà đi. Đi sao được. Mà ai cho đi cơ chứ.
- Tưởng anh là trưởng ban tuyên truyền, anh có thể đi khắp nơi chứ.
- Đâu có. Ông nói thế là nói cái anh tuyên truyền sau này, tuyên truyền bây giờ. Chứ lúc ấy, đi sao được. Mình cứ ngồi im chờ lệnh cụ Trường Chinh.
- Tưởng anh viết Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam...
- à, cái đấy mình hỏi. Mình hỏi mấy chú đã đến Điện Biên rồi. Hỏi xem ở đấy có những cái gì, mới biết mấy cái địa danh như thế đấy chứ, biết cả ở đó có cam, có mơ và rất nhiều hoa mơ. Chỉ mang máng thế thôi. Và rồi những cái mang máng ấy, cũng chẳng biết sẽ để làm gì. Sau này khi viết, mình mới lôi nó ra, đưa vào thơ, cứ nhét bừa vào. Nó mới thành: Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam / Hoa mơ lại trắng vườn cam lạ vàng. Đấy, đơn giản thế đấy.
Rồi Tố Hữu lại cười. Hoá ra ông Phật này cũng thích đùa lắm. Ông nói mà cứ như nói đùa, và tôi nghĩ, phải là người uyên thâm lắm, thông minh và lịch lãm lắm mới có thể nhìn mọi sự đơn giản như thế, mới có thể đùa được như thế. Đùa là một phẩm chất của trí tuệ. Thực tình, hai câu thơ mà Tố Hữu vừa nhắc đến, như nhắc đến một giai thoại vui kia, là hai câu thơ hay, nếu không nói là hay nhất trong bài. Đặt trong cái không khí của toàn bài, nó mới đắc địa, như người ta đang nghe một bản giao hưởng chát chúa toàn những kèn đồng, lại thấy vút lên mảnh mướt một tiếng sáo trúc đồng quê mát mẻ. Câu thơ ghép toàn những địa danh. Đưa địa danh vào thơ đâu có dễ dàng gì. Nhưng Tố Hữu có biệt tài trong cái kỹ nghệ ngày. Địa danh vào thơ ông thường rất nhuần nhuyễn. ở đây, dường như nó không còn là địa danh nữa, nó là kỹ nghệ chơi chữ cao, chơi chữ mà không thấy dấu vết của việc chơi chữ, chỉ có hai câu thơ với tên rừng, tên núi cụ thể mà Tố Hữu đã kết được thành một vòng hoa rực rỡ sáu màu. Đấy là vòng hoa tưởng niệm các liệt sĩ đã hy sinh ở chiến trường Điện Biên lịch sử. Xuân Diệu là người đã có công trong việc phát hiện ra cái vòng hoa thầm lặng đó.
- Sau này, ông Diệu ông ấy có khen tôi. Ông ấy tán ra thế, tôi mới biết nó như thế đấy chứ. Thực ra, đó là mấy cái địa danh có sẵn, địa danh có màu, dưới lại có trắng, có lam, có vàng. Cũng lại là màu nữa. Nó mới thành tấm thảm nhiều màu. Cái này, những anh em lý luận họ gọi là gì hỉ? Là tiềm thức à? Nghĩ cũng có lý hỉ?
Ngừng một lát, Tố Hữu tiếp:
- Bài thơ Điện Biên được viết nhanh lắm. Sau chiến thắng, tôi lên Bác ngay. Lên xin ý kiến Bác xem cần tuyên truyền thế nào. Có điều lạ là Bác rất bình thản. Bác bảo: Đây chỉ là chiến thắng bước đầu thôi. Sao các chú cứ rối lên thế. Ta đánh thì tất nhiên là sẽ thắng. Quân đội ta là quân đội quyết chiến, quyết thắng cơ mà. Bác khen các chú đánh giỏi. Nhưng đừng rối lên. Phải cảnh giác. Hết sức cảnh giác. Chiến tranh chưa kết thúc đâu. Kẻ thù ta bây giờ không phải là Pháp nữa, mà là Mỹ. Không khéo chuyến này, ta phải đánh nhau với Mỹ, còn lâu dài đấy, gian khổ đấy, đừng có tếu. Điều đáng kinh ngạc là Ông Cụ lại nói chuyện ấy ngay trong ngày chiến thắng Điện Biên. Tôi đã đọc một loạt những hồi ký viết về Ông Cụ ở thời điểm này, nhưng không thấy ai nói đến chuyện đó. Cũng trong cuộc gặp ấy, Ông Cụ bảo tôi làm tuyên truyền. Ông Cụ có bảo tôi làm thơ đâu, làm tuyên truyền động viên bộ đội đấy chứ. Tuyên truyền làm sao cho dân vui là được rồi. Tôi về, suốt đêm không ngủ được, cứ vẩn vơ mãi. Tôi nghĩ: tuyên truyền bằng thơ là tốt nhất. Thơ dễ phổ biến, dễ nhớ, dễ thuộc. Mình không nhận ra trận, nhưng cũng nghe lỏm được khối chuyện. Chỉ tội, chẳng biết Điện Biên ra sao. Rồi thì đèo Pha Đin, đèo Lũng Lô cũng chẳng thể hình dung được. Tôi bèn đến hỏi Bác, Bác ngửa cái mũ lá ra: Điện Biên nó như thế này này. Nó là một lòng chảo. Đấy, cũng chỉ mang máng thế thôi. Thế rồi thì tôi viết, viết nhanh lắm, viết không đến hai ngày. Những gì mình nghe được về Điện Biên, mình cho vào thơ hết, cho nó có vần có điệu, vì nhịp thơ nó đi như thế. Lục bát thì còn phải cò cưa ký cưa, chứ ở đây, mình cho nó nổ lung tung lên, chẳng việc gì phải giữ đúng khuôn khổ. Có lẽ đây là bài thơ tự do nhất, viết sảng khoái nhất. Hồi Cách mạng tháng Tám, mình cũng có bài thơ sảng khoái như vậy. Bài thơ nói về cái con chim gì ấy nó hót hót ấy...
- à, đấy là bài Huế tháng 8 - Hồng Diệu chợt như bừng tỉnh - Có con chim nào trong tóc, nhảy nhót hót chơi. Ha! Nó hót cái gì vui vui nghe thiệt ngộ.
- ờ, đại khái là như vậy.
Tố Hữu cười. Mấy anh em cùng cười. Không khí trong căn phòng thật ấm cúng vui vẻ. Tố Hữu tiếp tục câu chuỵện và Hồng Diệu lại làm bà Trần Thị Tuyết minh hoạ thơ cho ông. Phải nói trí nhớ của nhà tầm chương trích cú này cũng đáng hãi thật. Hầu như anh thuộc hết thơ Tố Hữu, kể cả những câu thơ trong quá trình sửa chữa, ông đã vứt rồi, mà Hồng Diệu vẫn còn thuộc. Anh đọc cho Tố Hữu nghe bằng một giọng von vót nửa kim, nửa thổ.Tiếng reo núi vọng sông rền...
- à , cái đó mình cũng phịa đấy. - Tố Hữu cắt ngang giọng đọc đầy hào hứng của Hồng Diệu. - Hồi đó, đang phải bí mật, có ai dám reo hò đâu. Nhưng phải viết thế, phải tạo không khí như thế mới có cớ mà hoan hô chứ. Mình hoan hô chiến sĩ Điện Biên, hoan hô ông Giáp. Lúc ấy, đại tướng võ Nguyên Giáp oanh liệt lắm. Người ra trận cơ mà. Một ông Tổng tư lệnh ra trận...
- Thế sao sau này, trong những tập tái bản gần đây, anh lại cắt câu ấy đi?
- Đâu, mình có cắt đâu - Tố Hữu ngạc nhiên. Mình chẳng biết gì đến chuyện ấy cả. Mình vẫn giữ đấy chứ, mà mình thấy cũng không có gì phải cải chính.
- Bài thơ này khi anh viết xong rồi, Bác Hồ có đọc không?
- Có chứ - Tố Hữu cười - Khi in ra, chắc Ông Cụ có đọc.
- Thế Ông Cụ nói sao?
- Ông Cụ chẳng nói sao cả. Chưa bao giờ Ông Cụ khen thơ tôi. Chỉ có anh Trường Chinh thì có khen, ví tôi với ông này, ông khác, nhưng anh ấy cũng nói tào lao cho vui thế thôi, còn Bác thì chưa bao giờ khen thơ tôi cả. Sau Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, tôi viết tiếp Ta đi tới và Việt Bắc...
Đây là thời kỳ sáng tác sung sức nhất của Tố Hữu. Trong ba bài thơ viết cùng một giai đoạn ấy, Việt Bắc là một kiệt tác, dù còn lẫn mấy câu vè. Hai bài thơ còn lại cũng như phần lớn thơ Tố Hữu, sẽ bất tử nhờ lịch sử. Bởi nó đề cập đến những cái mốc lịch sử. Mỗi bài là một trang biên niên sử. Mà đề cập đến lịch sử, viết về lịch sử thì không ai bằng được ông. Chiến thắng Điện Biên đã qua 40 năm rồi, đã có hàng trăm bài thơ viết về sự kiện này, nhưng cho đến nay, quả thật vẫn chưa có bài thơ nào viết về Điện Biên vượt bài thơ ông. Cái hay của bài thơ không nằm trong câu chữ cụ thể mà nằm trong cái hơi chung của toàn bài.
- à, lại nói về cái tên bài thơ. - Tố Hữu tiếp tục tâm sự - Lúc đầu mình lấy tên là Điện Biên Phủ. Nhưng sau nghĩ thấy không ổn. Điện Biên Phủ chỉ là một cái địa danh. Mình đổi thành Chiến thắng Điện Biên, cũng lại thấy vô duyên. Nghe nó như tên một bài báo. Mình đọc lại bài thơ, thấy có câu Hoan hô chiến sĩ Điện Biên. Thôi, lấy té luôn như thế cho rồi. Cái tên ấy hợp với không khí toàn bài - Tố Hữu nhìn sang tôi, sảng khoái như một người vừa thắng xong một trận đánh hóc hiểm - Thơ Khoa có lẽ chẳng bao giờ có hoan hô đâu nhỉ. Còn tôi thì tôi cứ hoan hô. Tôi còn hô cả khẩu hiệu nữa cơ. Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Muôn năm, muôn năm Mác - Lênin. Đấy, tôi hô khẩu hiệu đấy, tôi chả sợ. Tôi muốn nói rằng: Không có cái gì là không thành thơ được. Tôi cho cả Nguyễn Văn Trỗi hô: Hồ Chí Minh muôn năm. Mà hô những ba lần kia.
Tất nhiên, sau ba câu khẩu hiệu Hồ Chí Minh muôn năm, Tố Hữu đã hạ một câu thơ thật là thần tình: Phút giây thiêng anh gọi Bác ba lần. Và thế là ngay lập tức, mấy câu khẩu hiệu khô khốc trên kia đã không còn là khẩu hiêu nữa, nó đã thành tình cảm, xúc cảm, thành nỗi niềm thiêng liêng của cả một đời người ở cái giây phút hiểm nghèo nhất. Và người đọc bỗng ứa nước mắt. Đấy là tài nghệ của một bút pháp lớn. Bút pháp bậc thầy.
Câu chuyện Điện Biên tạm thời kết thúc. Tố Hữu quay sang hỏi Khánh Chi và tôi, cũng vẫn những chuyện văn chương. Khi chia tay ông, Khánh Chi mới rụt rè đề nghị:
- Bác Tố Hữu ơi, bạn đọc ở báo Đại đoàn kết lại còn có yêu cầu này nữa. Họ muốn có mấy dòng chữ và chữ ký của bác. Bác chép cho một đoạn thơ nào đó trong bài Hoan hô chiến sĩ Điện Biên.
Tố Hữu vui vẻ:
- ờ thì đưa sổ đây, có bút không?
Nhưng khi đặt cuốn sổ của Khánh Chi lên đầu gối rồi thì Tố Hữu lại lưỡng lự. Hình như ông đang tính xem nên chọn câu thơ nào. Hồng Diệu liền tham mưu:
- Xin anh chép đoạn này: Điện Biên vời vợi nghìn trùng / Mà lòng bốn biển nhịp cùng lòng ta...
- Không, không được. - Tố Hữu lắc đầu - Phải chọn đoạn khác. Cái đoạn nói về huân chương. ờ, mà tại sao bây giờ, người ta lại không thích đeo huân chương nhỉ. Đối với tôi, huân chương bao giờ cũng có ấn tượng rất mạnh.
Rồi ông cúi xuống viết vào cuốn sổ tay của Khánh Chi:
Kháng chiến ba ngàn ngày
Không đêm nào vui bằng đêm nay
Đêm lịch sử. Điện Biên sáng rực
Trên đất nước, như huân chương trên ngực
Dân tộc ta, dân tộc anh hùng...
Tố Hữu chép rõ từng nét chữ. Hồng Diệu đọc cho ông chép. Thỉnh thoảng, ông lại ngẩng lên, âu yếm chờ Hồng Diệu đọc tiếp. Tôi nhìn ông, ngỡ ngàng. Một nhà thơ lớn, nổi tiếng vào loại bậc nhất của nền thơ đương đại Việt Nam ngồi chép lại thơ mình, chép từ trí nhớ của một độc giả. Thật chẳng có gì sung sướng hơn được nhân dân thuộc thơ mình. Đấy chính là tấm huân chương cao quý nhất mà nhân dân đã trao tặng thi sĩ. Hạnh phúc lớn lao ấy, tạo hoá đâu có ban phát cho nhiều người.
Tháng 5-1994
Trần Đăng Khoa