Tôi nhục, ổng không nhục
Giữa những ngày sôi sục, có hai tin nghe rất tức về Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Không chỉ tức, mà đại nhục.
Một. Báo The New York Times
ngày 13/5/2014 đưa tin: một nhà ngoại giao cấp cao ở Bắc Kinh tiết lộ
người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam (Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng)
muốn qua Bắc Kinh gặp Tập Cận Bình để nói chuyện về Biển Đông, nhưng Tập
Cận Bình không chịu gặp.
Nhục!
Thằng ăn cướp đến cắm dùi trên đất nhà mình, khơi khơi nói chín khúc nhà
mày là của tao, nhưng thay vì đương đầu đường hoàng như người có chính
nghĩa trước kẻ cướp láo xược, thì chủ nhà lại len lén muốn đi đêm (chui
nhủi như kẻ trộm), toan tìm đến nhà kẻ cướp (kiêu ngạo như chủ soái),
mong gõ cửa, xin phép được gặp để tâu bẩm gì đó. Kẻ cướp nhìn thấy ắt
phì cười, khinh bỉ, cho mày chết cú nữa, không thèm tiếp!
Nhưng, thế là sao? Ai là cướp, ai là trộm? Ai chủ ai, ai tớ ai?
Chỉ còn
một cách hiểu: Chúng là đồng bọn. Tay chủ nhà bị cướp đang gõ cửa thực
ra là tay sai, còn kẻ không thèm tiếp là chủ nó, coi nó và bè đảng của
nó chẳng ra gì.
Bỗng nhớ
chuyện thật này: Một ông bố có con gái 8 tuổi bị hãm hiếp. Nhưng thay vì
đưa thủ phạm ra trị tội trước pháp luật, ông bố lại đến gặp thằng hiếp
dâm để thỏa thuận: “Ra tòa hay không, tùy mày chi cho tao ít hay nhiều!”
Xin lỗi, nghe chuyện, không thể không nghĩ ông bố đang chung tay hãm
hiếp con mình.
Hai. Ngày
14/5/2014, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI kết
thúc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có diễn văn bế mạc hội nghị. Diễn văn
được giáo sư Trần Hữu Dũng đúc kết như sau:
“Diễn
văn bế mạc của Nguyễn Phú Trọng có 7 đề tài chính. Hai đề tài đầu tiên
(và dài nhất) là: 1) Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam, và 2) Tích
cực đấu tranh với những biểu hiện lai căng. Đề tài thứ 4 là ngắn nhất,
nói về quốc phòng, an ninh, đối ngoại… Không có bất cứ một chữ ‘Trung
Quốc’ nào, và chỉ có duy nhất một chữ ‘Biển Đông’ (còn chữ Văn Hóa thì
được nói đền hơn 30 lần).” [i]
Nhục! Trên
thế giới, có lãnh tụ cao cấp nào khi kẻ xâm lược đã vào đến tận nhà
lộng hành mà vẫn cứ thản nhiên đứng trước quần thần nói chuyện văn hóa
lai tạp, không một lần dám gọi tên kẻ xâm lược, chỉ nhắc chuyện ngoại
xâm cho có lệ, bất chấp hàng triệu người dân, trong đó có cả Đảng viên
yêu nước, đang lòng như lửa đốt.
Nghe
chuyện này, không thể không nhớ ngụ ngôn “Hoàng đế cởi truồng” của Hans
Christian Andersen, và muốn lập tức trở thành thằng bé trong đám đông há
hốc miệng, la toáng lên rằng: Ới bà con ơi! Ới đồng bào ơi! Ới đồng chí
ơi! Ới công an, quân đội ơi… Tổng Bí thư cởi truồng!!!
Truồng bên người hùng
Mà truồng thật! Và không chỉ một, mà truồng cả cặp.
Tổng Bí
thư Tập Cận Bình cởi truồng! “Giấc mơ Hoa” mỹ miều ông rêu rao không che
đậy được giấc mộng Thiên triều bành trướng xấu xí dài nghìn năm.
Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng cởi truồng! 16 chữ vàng vớ vẩn không che đậy được
hình ảnh ông Trọng và bè đảng đang tồng ngồng khấu đầu ô nhục.
Thực ra,
Tổng Bí thư truồng cũng lâu rồi, nhưng chỉ một số người thấy, đại chúng
chưa thấy. Quả là tuyệt đại đa số dân Việt nói chung, cũng như bao dân
tộc khác, ít quan tâm đến chính trị, chưa hẳn biết dân chủ là gì, cũng
không quan tâm bao nhiêu đến nhân quyền, nhưng khi đụng đến chuyện giặc
Tàu xâm lược Việt Nam thì lại là chuyện hoàn toàn khác. Tất cả 90 triệu
dân, từ trẻ đến già, từ thất phu đến sĩ phu, sẽ lập tức sôi lên. Nhưng
trong khi toàn dân sôi lên, máu chống Tàu như bản năng sinh tồn sôi lên,
thì ông Trọng lại nguội lạnh, ung dung xem kẻ xâm lăng là bạn, và thế
là cùng lúc, 90 triệu dân thấy ông truồng như nhộng.
Cả nước thấy rồi, này ông Trọng, ông còn ngồi đó làm gì? Ông từ chức đi!
Giữa khi
Tổng Trọng truồng như thế và các đồng đảng khác của ông cũng chỉ thập
thò trò hữu nghị, vừa trơ tráo vừa như gà phải cáo, thì trong tứ trụ lại
có một cú chuyển ngoạn mục, từ số không, thậm chí âm không, vút trở
thành người hùng (from zero to hero). Thật vậy, “đồng chí X”, từng được
xem như tội đồ, bỗng chốc được hoan hô, và gần như được mọi người “xóa
tội”, khi nói một câu để đời “không đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển
vông.” Hoan hô đồng chí X.
Nhưng, sau
tuyên bố lẫy lừng đó của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, dân Saigon bỗng
dưng đâm lo, vì không biết liệu kẻ xấu có “thịt” ông không, không biết
chuyến máy bay của ông có bị “tự nhiên” rớt như các quan chức lớn vừa
rớt máy bay bên Lào không? Cũng có người bảo: Trung Quốc muốn có một
chính quyền thân Tàu ở Việt Nam, và như thế, họ có thể “thịt” ông Dũng
vì ông không chịu hàng, nhưng họ cũng có thể thịt luôn cả ông Trọng vì
đã dở hơi để “lộ hàng”.
Dân Saigon
cũng xì xầm rằng biết đâu Tàu có thể giựt dây đảo chính, để có một
chính quyền bù nhìn, như các nước lớn như Liên Xô, hay Mỹ thời Chiến
tranh Lạnh vẫn làm.
Quân đội và đảo chính
Chết, lớn
chuyện rồi! Đảo chính! Lâu nay không ai nhắc điều này trong chính trường
Việt Nam, nhưng vụ đảo chính vừa xảy ra bên Thái Lan làm mọi người nghĩ
đến nó như một điều có thể, thậm chí không xa.
Nói tới đảo chính, Samuel Hungtington (nổi tiếng với Xung đột giữa các nền văn minh)
có nhắc đến các loại đảo chính (coup d’etat) như: i) Đảo chính bứt phá
để cải cách, lập chính quyền mới, nhân sự mới, thể chế mới; ii) Đảo
chính “cung đình” để bảo vệ chế độ, chỉ thay người, không thay thể chế;
và iii) Đảo chính trấn áp, khi chính quyền đương nhiệm đi quá xa, hoặc
dân nổi loạn không theo ý quân đội. Cả ba loại đảo chính đều do quân đội
tiến hành. [ii]
Quả thật,
những ngày này, không thể không nghĩ đến vai trò của quân đội. Trong khi
ở một xã hội dân chủ, quân đội đứng ngoài chính trị, chỉ phục vụ đất
nước theo điều động của chính quyền dân cử, thì ở nước ta, Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng lại từng kịch liệt phản đối, xem là thoái hóa biến chất
những ai đòi phi chính trị hóa quân đội, và luôn nhấn mạnh quân đội
phải tuyệt đối trung thành với Đảng.
Thực ra,
Tổng Trọng cũng chỉ học bài người ngoài dậy. Tập đoàn Giang-Hồ (Giang
Trạch Dân – Hồ Cầm Đào) cũng đã học bài học này từ bộ đôi Mao-Đặng. Đặng
Tiểu Bình có lần đã khẩn khoản chỉ bảo Giang Trạch Dân, khi Giang lên
nắm chức Tổng Bí thư, rằng: ”Có năm ngày làm việc, hãy dành bốn ngày cho
các tướng lĩnh chóp bu” (“Out of five working days, spend four with the
top brass”). Và Giang-Hồ tuân răm rắp. Chỉ trong hai năm nắm quyền,
Giang đã đích thân đến thăm và làm việc với 100 đơn vị quân đội.[iii]
Thực ra,
giới cầm quyền Bắc Kinh đã từng e ngại đảo chính vào năm 1989, khi sinh
viên xuống đường rầm rộ ở Thiên An Môn. Điều đáng nói là một số tướng
lĩnh, khi được lệnh đưa quân đàn áp sinh viên, đã bất tuân thượng lệnh.
Tiêu biểu là Trung tướng Từ Cần Tiên (Xu Qinxian) tư lệnh Quân đoàn 38
lừng danh thuộc Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Hoa. Chuyện kể rằng,
khi Tướng tư lệnh Quân khu Bắc Kinh yêu cầu ông điều quân dẹp sinh viên,
ông đã hỏi đi hỏi lại: Có lệnh của Triệu Tử Dương chưa? (Triệu Tử Dương
là Tổng Bí thư Đảng thời kỳ đó, là người ủng hộ sinh viên muốn dân chủ
hóa.) Và khi biết không có lệnh của Triệu Tử Dương, Từ Cần Tiên đã nhất
định không điều quân. Không chỉ có trung tướng họ Từ, người đỡ đầu ông
là Tần Cơ Vĩ (Qin Jiwei) lúc đó là Bộ trưởng Quốc phòng và ủy viên Bộ
Chính trị, cũng tìm cách liên kết với Triệu Tử Dương để chống thiết quân
luật. Còn có tướng Hà Yên Nhiên (He Yanran), tư lệnh Quân đoàn 28, khi
đám đông giận dữ đốt phá các xe thiết giáp của đơn vị ông, ông cũng đã
bất tuân lệnh nổ súng đàn áp đám đông.[iv]
Đông Âu 1989
Quân đội
bất tuân, hay án binh bất động, cũng đã từng xảy ra ở Đông Âu năm 1989,
như trong cuộc Cách mạng Nhung ở Tiệp Khắc, và cuộc cách mạng ở Rumani
lật đổ nhà độc tài Ceausescu. [v]
Thực vậy,
các Đảng Cộng sản tại Tiệp Khắc và Rumani cho đến sát ngày cách mạng đều
tự tin rằng chế độ mình sẽ trường tồn bất bại, Ceausescu vẫn hùng hồn
trước hàng ngàn cử tọa ngoan ngoãn rằng: “Tương lai của chủ nghĩa xã hội
còn dài. Nó chỉ chết khi nào quả lê rụng từ cành táo!” (Tiên tri làm
sao! Đến nay, đúng là mác-lê đã rụng, “quả táo” mác-kinh-tốt đã phủ khắp
từ Baltic đến Adriatic, từ Mỹ sang Âu qua Á.)
Xin lược
qua vài diễn biến chính của Cách mạng Nhung để bạn đọc dễ hình dung,
cũng vì tình hình đó và đây không phải không có điểm giống:
Cách mạng
Nhung bắt đầu từ những cuộc biểu tình của quần chúng bị đàn áp, đỉnh
điểm của cuộc đàn áp là khi 3000 người lọt vào điểm “phục kích” của công
an, họ ngồi cả xuống, hát vang, công an ùa tới đánh đập dã man, hốt lên
xe. Có âm mưu tạo cái chết giả nhằm kích động quần chúng giận dữ chống
phe bảo thủ. Nhưng vô tác dụng. Quần chúng nổi giận. Diễn đàn Dân sự
(Civic Forum do Vaclav Havel lãnh đạo) hình thành, ra công bố 4 điểm:
yêu cầu Tổng Bí thư từ chức; yêu cầu Bí thư Thành ủy và quan chức đứng
sau vụ đàn áp sinh viên từ chức; yêu cầu điều tra vụ đàn áp; yêu cầu thả
tất cả tù nhân lương tâm. Diễn đàn kêu gọi tổng đình công 2 tiếng ngày
thứ hai, từ 12 g đến 2 giờ, để thăm dò phản ứng của đại chúng. Nếu tất
cả tham gia, thì ý chí của phe bảo thủ trong Đảng coi như tan tành. Quân
đội thay vì đàn áp lại ở trong trại lính. Nhân dân xuống đường 6 đêm
liền sau đó, tràn ngập quảng trường trung tâm. Đại diện chính quyền liên
lạc kín với Diễn đàn Dân sự để thương lượng cuộc bàn giao quyền lực. Và
cuối cùng Tổng Bí thư và toàn bộ hàng ngũ lãnh đạo Đảng Cộng sản Tiệp
Khắc từ chức. Cách mạng thành công.
Tổng Bí
thư Trọng rất có thể sẽ trở thành phiên bản của Tổng Bí thư Jakes của
Tiệp Khắc, toan tính thẳng tay đàn áp quần chúng bằng công an, thiết
quân luật, điều xe tăng vào thành phố… Jakes nói:
“Phải
lấy sức chọi sức! Chúng ta không thể ngồi yên giương mắt nhìn hành vi
của các nhóm hoạt động ngoài vòng pháp luật và bị nước ngoài giựt dây…
Những âm mưu kích động các thành phần thanh niên Tiệp có thể đưa xã hội
vào vòng khủng hoảng với hậu quả khó lường!”
Nghe quen quen! Cũng kích động, cũng “khó lường”…
Về phản ứng của những kẻ kiểm soát quân đội, vào giờ phút lâm chung, Phó Thủ tướng Tiệp Khắc Marian Calfa cho biết:
“Toàn
bộ guồng máy công an và an ninh nằm trong tay chúng tôi. Vậy mà không ai
có đủ dũng cảm, đủ nhạy bén, đủ bản lĩnh, nói chung là đủ những gì cần
thiết để dùng vũ lực…”
Tổng Bí
thư Jakes còn bị quan thầy Liên Xô giáng cho một đòn chí tử khi thông
báo rằng ông không thể chờ mong gì ở các lực lượng Xô-viết, cũng không
có bất cứ hỗ trợ chính trị nào để Jakes tiếp tục nắm quyền.
Về quần chúng, họ như vừa thoát xác, lớn lên chẳng khác gì Phù Đổng, như lời một người dân:
“Mỗi
ngày trôi qua là một ngày dân chúng thấy mình mạnh mẽ hơn, và đứng thẳng
lưng hơn. Tôi có cảm tưởng như tảng đá đè trong lòng suốt 20 năm vừa
qua giờ đã được gỡ bỏ. Người Tiệp chúng tôi thấy mình đường hoàng hơn.
Chúng tôi đã quá hèn mọn. Nhưng giờ chúng tôi bắt đầu cảm thấy tự hào.
Quả là một cảm giác phi thường.”
Cuộc Cách
mạng Nhung 1989 tại Tiệp Khắc cũng nhắc nhở vài điều quan trọng khác:
Cần một phe đối lập, đại diện cho tiếng nói của quần chúng. Và để hình
thành lực lượng này, cần có người đủ uy tín và tầm vóc để có thể quy tụ
mọi phe phái, dù trái ngược nhau đến mấy. Những nhân vật cũ trong chính
quyền mới, như ông Alexander Dubcek (tác giả của Mùa xuân Praha 1968)
ban đầu được quần chúng tung hô, nhưng khi ông bộc lộ tư duy cũ, vẫn tin
cậy chủ nghĩa xã hội thì dân phản đối ngay (Dubcek thất bại trong cuộc
bầu cử, chỉ trở thành chủ tịch Hạ viện hậu cộng sản, trong khi Vaclav
Havel trở thành tổng thống.) Một bài học cho các chính khách Việt Nam?
Phá Tống và dời đô
Giữa những ngày sôi động này bỗng nhớ các vị Lê Hoàn, Lý Công Uẩn và Lý Thường Kiệt.
Dường như
các thày phong thủy, tướng số, tử vi của Trung Quốc quên đọc lại lịch
sử, nên đã phạm một sai lầm cực lớn khi đưa giàn khoan HD-981 vào cắm ở
biển Việt Nam, vì năm 981 chính là năm Lê Hoàn (Lê Đại Hành) nhà Tiền Lê
phá tan quân Tống xâm lược.
Một trong
những việc làm ghi dấu sử xanh là việc Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) dời kinh
đô từ Hoa Lư về Thăng Long năm 1010. Và trong triều đại Nhà Lý, tôn
giáo được phát triển, nhân tài được sử dụng, giáo dục được khai sáng,
kinh bang tế thế được thực hiện hiệu quả làm dân giàu, nước mạnh.
Cũng chưa
bao giờ nhiều người lại ngâm nga và thấm thía bài tuyên ngôn độc lập
tuyệt vời, được Lý Thường Kiệt đọc năm 1077 khi đánh giặc Tống, như
trong những ngày này:
“Non nước trời Nam vua Nam ở. Rành mạch định phận tại sách trời. Quân thù cớ sao xâm phạm tới. Rồi bay sẽ bị đánh tơi bời.”
Nói một
câu hợp ý toàn dân là điều đáng hoan nghênh. Ra một tuyên ngôn nức lòng
người là điều cần thiết. Nhưng có lẽ điều quan trọng nhất về lâu về dài,
như Lý Công Uẩn đã làm, là dời đô, dời đổi thể chế, dứt khoát từ bỏ
“chỗ chật hẹp không thể mở mang” để đất nước và lịch sử thực sự sang
trang.
Thực ra, việc chuyển đổi thể chế có thể diễn ra trong nhiều tuần, nhiều ngày, hay chỉ qua một đêm.
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ