Thứ Tư, 6 tháng 9, 2017

TỪ TÂN TRÀO VỀ HÀ NỘI - Trích Hồi ký của cụ Vũ Đình Huỳnh.

Nhân kỷ niệm 72 năm cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9, xin trích Hồi ký của ông Vũ Đình Huỳnh (1906-1990), thư ký đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Vụ trưởng Vụ Lễ tân (Bộ Ngoại giao)... về lần đầu tiên được gặp Bác và những ngày sôi động của cách mạng tháng Tám, năm 1945
I. LẦN ĐẦU GẶP ÔNG CỤ
Tại Tân Trào, tôi gặp lại Sao Đỏ (bí danh của đồng chí Nguyễn Lương Bằng, nguyên Phó Chủ tịch nước). Chúng tôi lên sớm hơn các đại biểu khác để tham gia vào việc chuẩn bị. Tôi và Sao Đỏ ở trong một nhà dân, Ông Cụ ở lán.
Ông Cụ là biệt hiệu của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Trước khi lên Đại hội Tân Trào, tôi chưa được gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc lần nào. Nhưng từ lâu rồi, và không riêng đối với tôi, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành nhân vật thần thoại, ngọn cờ của cách mạng Việt Nam.
Lần này lên Tân Trào, tôi mang theo hy vọng được gặp con người thần thoại đó. Vừa mới chân ướt chân ráo tới chỗ Sao Đỏ, anh đã bảo tôi:
- Này, Ông Cụ hỏi tôi về tình hình nhân sĩ trí thức của Hà Nội và Bắc Hà đấy, tôi nói cái này tôi không rành, sẽ có đồng chí khác báo cáo. Bây giờ anh lên rồi, anh tới gặp Ông Cụ đi!
Chúng tôi đi vào trong rừng, tới một cái lán. Khi chúng tôi bước vào, Ông Cụ đang ngồi chăm chú đọc một cuốn sổ tay nhỏ. Gầy còm nhưng rắn rỏi, đôi mắt sáng và linh lợi, với chòm râu thưa, Ông Cụ tiếp chúng tôi một cách cởi mở, giản dị.
Với giọng trầm và ấm, từ trong ngực phát ra, Ông Cụ hỏi qua về tôi rồi đề nghị tôi nói cho ông nghe về tình hình trí thức trong nước.
Tôi báo cáo với Ông Cụ những gì tôi biết, từ phong trào Cần Vương trở đi, ai còn, ai mất, trong đám Đông Kinh nghĩa thục, Phục Việt là gì, đám trí thức trong các nhóm Thanh Nghị, Tự lực Văn đoàn, Ngày nay... và thái độ của từng người đối với Việt Minh và cách mạng dân tộc thế nào...
Ông Cụ nghe chăm chú, thỉnh thoảng mới ngắt lời tôi để hỏi kỹ thêm về một người nào đó.
- Này, cụ Huỳnh Thúc Kháng, sao nghe nói có hợp tác với Tây?
- Chuyện đó không có - tôi đáp - sau khi ở Côn Đảo về, cụ Huỳnh Thúc Kháng ra báo “Tiếng Dân”, Tây ngại, muốn mua chuộc, có mời cụ ra làm Viện trưởng Viện Dân biểu thật. Hồi ấy tôi có đi Huế để yết kiến cụ Huỳnh. Tôi thấy cụ vẫn giữ được tư cách nhà Nho, yêu nước thương dân chứ không phải phường cơ hội. Tây định lợi dụng uy tín của cụ, nhưng cụ đâu có dễ để cho chúng toại nguyện.
Ông Cụ gật gù, vẻ thích thú :
- Tại sao lại gọi ông Tố là ông Phán Men? Nghiện rượu à?
- Ông Nguyễn Văn Tố nhà ở Hàng Bút, đi làm tận gần Bờ Sông, nhưng không bao giờ đi xe kéo, mà chỉ đi bộ, khi nào cũng cầm ô đi sát tường, đi men tường, mới thành cái biệt hiệu ông Phán Men.
Ông Cụ cười thành tiếng. Giọng cười ám áp, thư thái và truyền cảm:
- Thế còn linh mục Phạm Bá Trực? Ông ta cũng yêu nước?
Tôi phải kể dài dòng về vị linh mục này. Khoảng những năm đầu 1930, linh mục Trực tốt nghiệp mấy bằng tiến sĩ ở Rôma trở về nước, ai cũng nghĩ ông sẽ được phong giám mục, vậy mà giáo chức người Pháp lại đưa ông về thị xã Hà Đông trông một xứ đạo nhỏ, chỉ vì ông bướng bỉnh chống lại những lề thói phân biệt đối xử giữa linh mục Tây và ta.
Thấy cố đạo Tây lộng hành, ông mắng. Thấy linh mục ta không được phép ăn chung với linh mục Tây, ông chống. Ông chống cả việc linh mục Tây vào gặp giám mục thì bắt tay mà linh mục ta thì phải tụt giày, vái lễ. Ông Phạm Bá Trực có câu nói nổi tiếng: “Đứng trước Chúa, không có sự phân biệt màu da”.
Ông Cụ tỏ vẻ hài lòng với những thông tin của tôi. Tuy sơ kiến, nhưng tôi cảm thấy Ông Cụ thật gần gũi.
Hội nghị Tân Trào đang họp thì có tin báo lên, Hà Nội đã nổi dậy cướp chính quyền. Trần Huy Liệu được phân công viết cấp tốc Lời kêu gọi Tổng khởi nghĩa.
Sau đó là lễ xuất phát của Giải phóng quân. Bức ảnh chụp Giải phóng quân xuất phát có Võ Nguyên Giáp đội mũ phớt là do anh Hoàng Văn Đức chụp. Lúc đó trong số đại biểu chỉ có Hoàng Văn Đức là có máy ảnh mang theo.
Đại hội bế mạc. Chúng tôi chia tay nhau. Đặng Xuân Khu (bí danh của Trường Chinh), Võ Nguyên Giáp và tôi trở về Hà Nội bằng đường Thái Nguyên. Hoàng Quốc Việt và Sao Đỏ về đường Tuyên Quang. Phạm Văn Đồng được phân công ở lại củng cố căn cứ địa.
Chúng tôi lúc ấy cũng chưa tin chắc ở thắng lợi trọn vẹn, vì thế vẫn cứ phải có một cái gì đó đảm bảo cho trường hợp xấu. Anh Đồng rủ tôi ở lại căn cứ địa, nhưng tôi từ chối:
- Tôi là người quen thuộc Hà Nội, anh em còn cần tới tôi nhiều.
Trong thâm tâm, tôi muốn mau chóng trở về thành phố thân yêu, nơi tôi hình dung đang có những cuộc chiến đấu ác liệt giành lại chính quyền của các lực lượng vũ trang cách mạng.
Chúng tôi đi bộ qua đèo Re ra Đại Từ, ở đó có một chiếc xe Jeep tàng đã đợi sẵn. Chúng tôi lúc lắc đi tới Phấn Mễ, người mệt nhừ. Tôi bảo anh em rẽ vào trại của Nghiêm Xuân Yêm, bạn tôi, nghỉ lại.
Đến đây, chúng tôi mới biết Mỹ đã ném bom xuống Hiroshima và Nagasaki vào hai ngày 6 và 9 tháng 8, đồng thời tin Liên Xô tuyên chiến với Nhật ngày 9 tháng 8.
Xe chúng tôi về tới Bắc Giang thì gặp Huyên (bí danh của Nguyễn Thanh Bình, nguyên Ủy viên Thường trực Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Thủy lợi).
Anh thay xe cho chúng tôi, bởi vì về Hà Nội trên cái xe ọp ẹp kia nom thảm quá, hơn nữa nó lại ì ạch như sên. Đi trên chiếc xe Ford đen chững chạc hơn, nhanh hơn, mới được một đoạn thì gặp đường vỡ vì nước lớn, chúng tôi lại phải quay trở lại đi vòng về Phả Lại để chạy hướng Cầu Đuống.
Lòng chúng tôi bồn chồn như lửa đốt. Suốt dọc đường, Đặng Xuân Khu cứ chồm mình về phía trước, như thể bằng cách đó, anh có thể làm cho xe đi nhanh thêm. Trầm tĩnh hơn, hoặc mệt mỏi hơn, Võ Nguyên Giáp lim dim mắt ngủ thiêm thiếp.
Tới Cầu Đuống, tôi đề nghị cả ba xuống xe vào nhà một ông giáo có chân trong Hội Truyền bá Quốc ngữ và là người có cảm tình với cách mạng. Tôi mượn nhà giáo cái xe đạp, để Đặng Xuân Khu và Võ Nguyên Giáp lại, đạp một lèo về Hà Nội. Tôi về trước là để nghe ngóng tình hình cụ thể, sau đó mới lên đón hai người, biết đâu...
Ai dè về tới Gia Lâm đã thấy phố xá chìm ngập trong rừng cờ đỏ sao vàng. Qua cầu Đume (cầu Long Biên), tôi xộc ngay vào phố Chợ Gạo gặp Nghiêm Tử Trình.
Vừa kịp hỏi: - “Tình hình thế nào, đưa Đặng Xuân Khu, Võ Nguyên Giáp về được rồi chứ?” thì Trình trợn mắt lên: - “Cướp chính quyền xong rồi. Ra Bắc Bộ phủ thì gặp tất cả chúng nó”.
Tôi nhảy luôn lên xe, phóng tiếp. Bắc Bộ phủ đây rồi! Trên nóc đá đen của nó tung bay lá cờ của ta. Trước cửa Bắc Bộ phủ người lính của ta đứng gác. Tôi đưa bàn tay ngang trán chào anh giải phóng quân, đi vào.
Trong Bắc Bộ phủ, anh em đang xúm xít làm việc bên một cái bàn rộng. Nguyễn Khang, Nguyễn Văn Trân, Nguyễn Văn Thân ôm chầm lấy tôi. Tôi báo tin các anh Đặng Xuân Khu, Võ Nguyên Giáp đang chờ ở Cầu Đuống. Anh em cho lấy ngay một xe Commăngca của Nhật đi đón.

Ảnh : Chủ tịch Hồ Chí Minh và thư ký Vũ Đình Huỳnh ở Paris năm 1946. (Ảnh tư liệu)
 Ảnh : Ông Vũ Đình Huỳnh tháp tùng Hồ Chủ tịch đón Tổng thống Indonesia Sukarno tại sân bay Gia Lâm năm 1959. ( Ảnh tư liệu)

Có lẽ do ảnh hưởng của bản báo cáo miệng của tôi với Ông Cụ về tình hình trí thức Bắc Hà và kết quả những cuộc tiếp xúc của tôi và Võ Nguyên Giáp với trí thức mới đây, nên trong cuộc họp Thường vụ Trung ương Đảng tại nhà Trịnh Văn Bô (khoảng 21 hoặc 22/8/1945), anh Sao Đỏ đã đề nghị tôi tách khỏi mọi công tác để giúp việc cho Ông Cụ.
Mặt khác, trong thời kỳ hoạt động bí mật, tôi đi lại nhiều, có nhiều hiểu biết về các địa phương trong nước, có quan hệ với nhiều người thuộc nhiều giới khác nhau, mà Ông Cụ thì lại mới từ nước ngoài về, cần đến một người như tôi ở bên cạnh để tham khảo ý kiến. Đề nghị của anh Sao Đỏ được Thường vụ tán thành.
Quả vậy, việc đầu tiên của Ông Cụ sau khi đặt chân lên đất Hà Nội là nhanh chóng xây dựng bộ máy chính quyền cách mạng trung ương gồm những người có danh tiếng, đại diện cho tinh hoa đất nước. Với bản tính khiêm tốn, trọng kẻ sĩ, Ông Cụ không tự coi mình cao hơn hết, những người cộng sản giỏi hơn hết, không cần tới ai khác.
Cũng tại Tân Trào, sau khi kết thúc câu chuyện với anh Sao Đỏ và tôi, Ông Cụ nói: “Chúng mình là cái men thôi, gây nên được rượu là nhờ vào cơm nếp, phải có đông đảo quần chúng tham gia mới thành cách mạng”. Ông Cụ coi nhân sĩ, trí thức là thứ men tốt, cần phải kéo họ về mình.
Bước dừng chân đầu tiên nơi cửa ngõ Thủ đô của Ông Cụ là làng Phú Gia ở bên kia sông Hồng. Anh Đặng Xuân Khu (Trường Chinh) lập tức sang sông gặp Ông Cụ để báo cáo công việc.
Ngày 24/8/1945, tôi đón Ông Cụ về 48 Hàng Ngang, lần này với tư cách là người thư ký riêng, mà hồi đó người ta thường gọi là bí thư.
Ngôi nhà 48 Hàng Ngang là nhà riêng của Trịnh Văn Bô, một nhà tư sản có tiếng của thành phố hồi ấy. Anh chị Bô rất có cảm tình với cách mạng và đã tích cực giúp đỡ các cán bộ của Đảng trong những ngày ta chưa lấy được chính quyền.
Xe đón Ông Cụ từ Phú Gia về Hà Nội qua cầu Long Biên là rẽ ngay đường Hàng Khoai rồi tạt hông chợ Đồng Xuân về 48 Hàng Ngang (chứ không phải đi theo đường Hàng Cân như một số hồi ký đã viết).
Đường phố đã lên đèn. Tưng bừng tiếng trống ếch thiếu nhi, đó đây những dòng người biểu tình thị uy hô vang những khẩu hiệu cách mạng, ở góc đường một đám đông đang đứng nghe một cán bộ diễn thuyết về chương trình mười điểm của Việt Minh...
Cả Hà Nội tắm mình trong không khí ngày hội lớn.
Khi bước lên xe, Ông Cụ hỏi tôi:
- “Bây giờ anh cho tôi về đâu?”.
- “Thưa Cụ, anh em đã bố trí một cơ sở chu đáo". Tôi đáp, biết Ông Cụ là người cẩn thận.
Xe đến cầu Long Biên, Ông Cụ ngả hẳn người ra kính cửa xe nhìn những gióng sắt của cây cầu rồi nhìn xuống sông Hồng. Cái nhìn vừa chăm chú lại vừa bỡ ngỡ. Tôi tự hỏi không biết đây có phải là lần đầu tiên Ông Cụ nhìn thấy những cảnh này không?
Chẳng lẽ Ông Cụ chưa một lần ra đất Thăng Long?
Nhưng tôi không dám hỏi. Khi đi gần hết cầu, Ông Cụ lẩm bẩm:
- “Nước to”.
Chỉ mãi tới khi xe chạy ngang hông chợ Đồng Xuân, Ông Cụ mới nói với tôi:
- “Tôi chưa biết Hà Nội bao giờ cả”.
Tôi đáp: - “dạ” và cảm thấy xót xa trong lòng: Khổ cho Ông Cụ, biết Paris, biết Berlin... mà lại chưa biết Hà Nội.
Ông Cụ về Hà Nội với bộ quần áo chàm và cái túi vải cũng nhuộm chàm mà người Tày thường đeo trong khi lên nương rẫy hoặc đi chợ, con người mà vài năm sau được cả thế giới biết tiếng.
Sáng hôm sau, Ông Cụ bảo tôi báo cáo lại lần nữa, tỉ mỉ hơn, cụ thể hơn về từng vị nhân sĩ, trí thức. Tôi ngạc nhiên trước sự quan tâm đặc biệt của Ông Cụ đối với các vấn đề tôn giáo, đặc biệt là đạo Thiên Chúa.
Những gì tôi báo cáo, Ông Cụ ghi vào sổ tay, bằng chữ Hán, rất ngắn gọn, chỉ vài ba chữ là đủ. Từ những dòng ghi vắn tắt đó đã ra đời kế hoạch thành lập Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Hằng ngày, tôi đón Ông Cụ ra Bắc Bộ Phủ làm việc. Sau ít ngày ở 48 Hàng Ngang, Ông Cụ chuyển đến ở ngôi nhà của Chánh án Tòa Thượng thẩm cũ, số 8 phố Bonchamp (trước cửa Thủy Tạ, sau bị Pháp phá trụi), chỉ trở về Hàng Ngang để ăn cơm.
Chị Trịnh Văn Bô ngày ngày đặt hai thồi cơm bên Đông Hưng Viên, một hiệu cao lâu có tiếng của người Tàu ở phố Hàng Buồm, đến giờ họ khắc bưng sang.
Trong những ngày sôi động này, ngoài công việc hằng ngày với Ông Cụ (mà chúng tôi bắt đầu gọi bằng Bác cho thân mật) tôi vẫn thường được Bác phái đi gặp các nhân sĩ, trí thức, đặc biệt là các cụ cao tuổi như cụ Nguyễn Văn Tố, cụ Phạm Bá Trực, cụ Bùi Bằng Đoàn...
Tôi nhớ mãi cái buổi tối đến mời cụ Nguyễn Văn Tố tham gia việc nước. Cụ pha trà mời tôi rồi khiêm tốn từ chối:
- “Tôi là con người không làm cách mạng được, chỉ biết chút chữ nghĩa, nhưng không hiểu gì chính trị, xin các ông miễn cho...”.
Cụ nói thẳng bằng giọng hết sức thật thà, khiêm tốn. Đến khi tôi nói rõ cụ Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc và nay Cụ Hồ mời các cụ ra gánh vác quốc sự, mưu hạnh phúc cho dân thì cụ Tố cảm động nói:
- “Cụ đã nói thế, tôi còn biết từ chối làm sao... Thôi thì còn chút trí mọn nào tôi xin cống hiến hết”...
( Theo báo Nông nghiệp ngày nay)

0 Nhận xét:

Đăng nhận xét

Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]

<< Trang chủ