Đảng Cộng sản còn tồn tại ở Trung Quốc được bao lâu nữa?
Jamil Anderlini, Financial Times Magazine, 20/9/2013
Phạm Vũ Lửa Hạ dịch
Nằm lọt thỏm giữa trường gián điệp
hàng đầu của Trung Quốc và Di Hòa Viên ở phía tây Bắc Kinh là nơi duy nhất ở xứ
này người ta có thể công khai bàn về sự diệt vong của Đảng Cộng sản cầm quyền
mà không sợ phải chuốc họa vào thân. Nhưng địa điểm xanh rợp bóng cây này không
phải trụ sở của một tổ chức nghiên cứu có tư tưởng tự do được Mỹ tài trợ hay
một cơ sở đối kháng hoạt động bí mật. Đây là Trường Đảng của Trung ương Đảng
Cộng sản Trung Quốc, học viện cao cấp dành cho các vị lãnh đạo độc tài của nước
này, nơi được bộ máy tuyên truyền chính thức mô tả là “lò luyện tinh thần của
đảng viên”.
Trường Đảng Trung ương ở Bắc Kinh.
(Ảnh: Eric Gregory Powell)
Trường Đảng Trung ương được thành
lập năm 1933 để giáo huấn cho cán bộ thấm nhuần chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa Lenin
và về sau là Tư tưởng Mao Trạch Đông. Trong số các hiệu trưởng cũ có chính Mao
Trạch Đông, chủ tịch mới được chọn Tập Cận Bình và vị tiền
nhiệm Hồ Cẩm Đào. Để thích ứng với một số thay đổi hệ trọng đã xảy ra trong xã
hội Trung Quốc, chương trình giảng dạy đã được sửa đổi triệt để trong những năm
gần đây. Học viên vẫn đắm mình trong những lời vàng ý ngọc của Tư bản luận
và “Học thuyết Đặng Tiểu Bình” nhưng họ cũng được học kinh tế, luật, tôn giáo,
các vấn đề quân sự và tư tưởng chính trị phương tây. Ngoài các buổi xem phim
tài liệu chống tham nhũng và tham gia hát tập thể những bài ca cách mạng, học
viên (gồm các cán bộ trung và cao cấp) được học cách thưởng thức opera và nghi
lễ ngoại giao. Một thay đổi quan trọng hơn đối với học viện được lập ra để bảo
đảm tính thuần khiết ý thức hệ là học viện này đảm nhận một vai trò tương đối
mới: là nơi sinh hoạt tri thức được thoải mái bàn bạc về mọi vấn đề mà gần như
không có gì hạn chế. Một giáo sư Trường Đảng xin đừng nêu tên vì ông không được
phép phát biểu với báo chí nước ngoài kể: “Chúng tôi vừa có một hội thảo với
đông đảo đảng viên rất có thế lực và họ hỏi chúng tôi nghĩ là đảng sẽ còn nắm
quyền bao lâu nữa và chúng tôi đã chuẩn bị gì cho thời điểm đảng sụp đổ. Thật
tình mà nói, ai ai ở Trung Quốc cũng hỏi câu này nhưng tôi e rằng rất khó trả
lời.” Những người kế tục cuộc cách mạng năm 1949 của Mao Trạch Đông còn bấu víu
vào quyền lực được bao lâu nữa đã là câu hỏi thường trực kể từ vụ thảm sát ở
quảng trường Thiên An Môn năm 1989 và sự tan rã của Liên Xô. Đã có nhiều tiên
đoán u ám về việc Đảng Cộng sản sắp sụp đổ, để rồi tiên đoán vẫn hoàn tiên
đoán, nhưng đảng vẫn tồn tại, thậm chí còn lớn mạnh hơn, đặc biệt kể từ khi
đảng mở cửa đón nhận giới tư sản vào hàng ngũ đảng lần đầu tiên cách đây một
thập niên. Ngày nay, đảng cách mạng của giai cấp vô sản có lẽ được mô tả rõ
nhất là phòng thương mại lớn nhất thế giới, và tấm thẻ đảng là cách tốt nhất để
giới doanh nhân tạo quan hệ và ký được các hợp đồng béo bở. Trong vòng chưa đầy
5 năm nữa, Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ thách thức ngôi vị của Liên Xô (69 hay
74 năm tùy cách tính) và Đảng Cách mạng Thể chế của Mexico (71 năm cho đến năm
2000) về kỷ lục thời gian cầm quyền liên tục lâu nhất của bất cứ chính đảng
nào. Lý thuyết hiện đại hóa cho rằng các hệ thống độc tài có xu hướng dân chủ
hóa khi thu nhập quốc dân tăng lên, rằng việc tạo ra một tầng lớp trung lưu
đông đảo sẽ đẩy nhanh quá trình đó và rằng tình trạng suy thoái kinh tế sau một
thời kỳ tăng trưởng nhanh sẽ khiến quá trình chuyển tiếp đó càng dễ xảy ra.
Tình trạng bất bình đẳng trầm trọng và ngày càng tăng cộng với tham nhũng ở mức
độ cao có thể tăng thêm động lực dẫn đến thay đổi. Tất cả những yếu tố này hiện
đã có ở Trung Quốc, nhưng có nhiều nhà lý thuyết chính trị, trong đó có nhiều
người ở Trường Đảng Trung ương, nhận định rằng Trung Quốc có đặc trưng khác
biệt về văn hóa và chính trị, và làn sóng sụp đổ của các chế độ độc tài vẫn
đang tràn qua thế giới Ả Rập sẽ chẳng bao giờ đến Trung Quốc được. Nhưng cũng
có nhiều người, trong đó có các trí thức Trung Quốc có ảnh hưởng, những nhà
nghiên cứu Trung Quốc danh tiếng ở phương tây và thậm chí cả những đảng viên
cao cấp có tư tưởng tự do, tin rằng đây là những ngày cuối cùng của kỷ nguyên
Cộng sản và đảng sẽ bị cuốn trôi nếu không sớm cải cách chính trị nghiêm túc. “Ngàn
thu và vạn thế hệ” Trần Thư là giáo sư lịch sử đảng, “xây dựng đảng” và Tư
tưởng Mao Trạch Đông ở Trường Đảng Trung ương và các quan điểm của ông phản ánh
tư duy chính thống trong giới chóp bu của đảng. Tuy có nhiều hoạt động tri thức
sôi nổi và thoải mái trao đổi ý tưởng diễn ra bên trong các bức tường của học
viện, người nước ngoài vẫn bị cấm vào trường nếu không có giấy phép đặc biệt,
quy định này có từ thời sự hiện diện của trường này là một bí mật quốc gia.
Giáo sư Trần đã tử tế đồng ý gặp ký giả của Financial Times ở một tiệm
trà đối diện Di Hòa Viên, nhưng ông tỏ ra khó chịu khi được hỏi ông nghĩ tương
lai của đảng sẽ ra sao.
“Những lý thuyết đó về một cuộc khủng hoảng
Trung Quốc hay sự sụp đổ của Trung Quốc đều hoàn toàn của phương tây,” ông nói
bằng một giọng rõ ràng là dè bỉu từ “phương tây”. “Càng có nhiều áp lực đối với
văn hóa Trung Quốc và đảng Cộng sản, văn hóa Trung Quốc và đảng Cộng sản càng
đoàn kết và gắn bó, và càng có khả năng đạt được những phép lạ.” Lâm Triết là
một là giáo sư Trường Đảng Trung ương đã dành hai thập niên vừa qua nghiên cứu
cách đảng xử lý tham nhũng trong hàng ngũ đảng viên. Ở cùng tiệm trà đó, bà vui
vẻ tiên đoán rằng đảng sẽ kỷ niệm 100 năm cầm quyền vào năm 2049 và nói rằng
đảng sẵn sàng, nói như tục ngữ Trung Quốc, cai trị trong “ngàn thu và vạn thế
hệ” Nhưng cả hai giáo sư Lâm và Trần cũng cảnh báo rằng tính chính danh của
đảng bị đe dọa do đại nạn tham nhũng đã lan đến mọi cấp trong hệ thống. Giáo sư
Lâm nói: “Vấn đề này rất nguy hiểm, và như các vị lãnh đạo hàng đầu của Trung
Quốc đã nói, nó có thể dẫn đến sự diệt vong của đảng và sự diệt vong của quốc
gia.” Tính bền bỉ của chế độ độc tài Trong cuốn sách năm 1992 Sự cáo
chung của lịch sử và con người cuối cùng (The End of History and the Last
Man), Francis Fukuyama lập luận rằng nền dân chủ tự do phương tây đại diện cho
hình thức cuối cùng của sự cai trị con người và điểm tận cùng của sự tiến hóa ý
thức hệ. Lập luận của ông được củng cố bằng sự gia tăng đáng kể của dân chủ
trong thế kỷ 20. Năm 1900, không có quốc gia nào trên thế giới có nền chính trị
đa đảng mang tính cạnh tranh với hình thức bỏ phiếu phổ thông, và chỉ có khoảng
12% nhân loại sống trong một hình thức cai trị có thể được xem là có phần dân
chủ, theo tổ chức phi chính phủ Freedom House ở Mỹ. Đến đầu thế kỷ 21, 120
trong số 192 nước được quốc tế công nhận của thế giới được cai trị bằng các nền
dân chủ có bầu cử, và 60% dân số thế giới sống trong một chế độ có lãnh tụ được
bầu cử một cách dân chủ. Fukuyama, nay là nghiên cứu viên cao cấp ở Đại học
Stanford University, nói ông tin rằng Trung Quốc sẽ đi theo con đường của hầu
hết các nước khác, có thể thông qua quá trình tự do hóa dần dần mà rốt cuộc sẽ
nhường đường cho dân chủ. Nhưng nếu điều đó không xảy ra, ông nói cũng có thể
xảy ra những cuộc nổi dậy của dân chúng giống như đã thấy trong biến cố Mùa
xuân Ả Rập. “Mô hình chính trị của Trung Quốc đơn giản là không bền vững do
tầng lớp trung lưu ngày càng lớn mạnh – cũng giống như động lực đã thúc đẩy dân
chủ ở khắp mọi nơi,” ông nói. “Thế hệ mới này ở Trung Quốc rất khác với thế hệ
đã rời bỏ ruộng đất và thúc đẩy làn sóng công nghiệp hóa đầu tiên – họ có học
vấn cao hơn nhiều và giàu hơn nhiều, và họ có những yêu sách mới, những yêu
sách như không khí trong lành, nước sạch, thực phẩm an toàn, và những vấn đề
khác không thể giải quyết được bằng tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh.” Các ước
tính về quy mô của tầng lớp trung lưu ở Trung Quốc khác nhau tùy theo định
nghĩa được dùng, nhưng có một điều chắc chắn là tầng lớp này gần như không tồn
tại cách đây hai thập niên và hiện nay đang tăng với tốc độ chóng mặt. Hãng tư
vấn McKinsey cho biết tầng lớp được họ gọi là “tầng lớp thượng trung lưu” – bộ
phận dân số có thu nhập hộ gia đình hàng năm từ 17.350 đô-la đến 37.500 đô-la –
chiếm khoảng 14% số hộ gia đình thành thị ở Trung Quốc hồi năm ngoái, nhưng sẽ
chiếm khoảng 54% số hộ gia đình trong chưa đầy một thập niên nữa. Trung Quốc
thường được dùng làm bằng chứng phản bác lý thuyết của Fukuyama, qua đó giới
phê bình cho rằng quá trình tái đổi mới liên tục của đảng có khả năng phản ứng
trước những nhu cầu và yêu sách của công dân nhanh nhạy hơn nhiều so với các hệ
thống độc tài truyền thống. Chỉ mới cách đây vài năm, David Shambaugh, giám đốc
Chương trình Chính sách Trung Quốc tại Đại học George Washington University và
là một chuyên gia hàng đầu về hệ thống chính trị Trung Quốc, vẫn còn ủng hộ
mạnh mẽ quan điểm này. Nhưng ông đã thay đổi quan điểm và nay tin rằng đảng
đang ở trong trạng thái suy tàn giống như thời kỳ hấp hối của các triều đại
trong lịch sử. Các dấu hiệu gồm có một ý thức hệ nhà nước rỗng tuếch mà xã hội
không tin nhưng giả vờ tuân thủ cho có lệ, nạn tham nhũng ngày càng trầm trọng,
việc nhà nước không cung cấp cho dân chúng đủ phúc lợi xã hội và tâm trạng
người dân đâu đâu cũng cảm thấy bất an và thất vọng. Những dấu hiệu khác bao
gồm tình trạng bất ổn xã hội và sắc tộc ngày càng tăng, sự chia rẽ bè phái
trong giới chóp bu, nạn đánh thuế quá cao với phần lớn nguồn thu rơi vào túi
quan chức, tình trạng bất bình đẳng thu nhập trầm trọng và ngày càng tệ hại
hơn, và không có chế độ pháp trị đáng tin cậy. Shambaugh nói rằng một chỉ số
rất đáng thuyết phục cho thấy người dân chẳng tin tưởng vào chế độ là số người
giàu Trung Quốc có tài sản và nhà ở nước ngoài, tài khoản ngân hàng hải ngoại
và có con cái du học ở các trường đại học phương tây. “Những người này sẵn sàng
tháo chạy trong tích tắc, ngay sau khi hệ thống chính trị bước vào thế tàn cuộc
– nhưng họ vẫn ở lại Trung Quốc để bòn rút đến từng đồng nhân dân tệ cuối cùng
chừng nào còn làm được cho đến thời điểm đó,” ông nói. “Hành vi phòng thân của
họ bộc lộ rất rõ tính mỏng manh của nhà nước đảng trị ở Trung Quốc hiện nay.” Xác
ướp trong quan tài pha lê Treo ngay trên cổng Thiên An ở lối vào phía nam
của Tử Cấm Thành là một bức chân dung khổng lồ của Mao Trạch Đông nhìn từ quảng
trường Thiên An Môn sang cái lăng uy nghi ở đối diện, nơi đặt xác ướp của ông
quấn trong một lá cờ cộng sản. Mỗi buổi sáng trong tuần, trừ Thứ Hai, những
hàng dài du khách Trung Quốc xếp rồng rắn quanh quảng trường để đợi đến dịp
nhìn vị đại lãnh tụ nằm trong cái quách bằng pha lê. Cách đây một thập niên, ta
thường chứng kiến những người hành hương xúc động òa khóc hu hu và ngất xỉu quỳ
gối khi thấy “vị hoàng đế đỏ” quá cố của Trung Quốc. Nhưng vào một hôm mới đây,
cảm xúc chủ đạo của các khán giả dường như là thờ ơ hoặc hơi thất vọng. “Tôi
phải xếp hàng đợi cả tiếng đồng hồ vì cái này à?” một người đàn ông trung niên
nói với giọng nặng địa phương. “Không chừng đó chỉ là cái xác bằng sáp; thật
phí thời gian.” Sự thay đổi khó thấy này về thái độ [của dân chúng] trong thập
niên vừa qua thể hiện một biến đổi sâu sắc hơn trong xã hội Trung Quốc rất khó
lượng hóa nhưng ngày càng rõ rệt. Perry Link, giáo sư ở Đại California tại
Riverside và là một trong những chuyên gia phương tây về Trung Quốc được tôn
trọng nhất, nói: “Nền tảng ý thức hệ của đảng quả thực rất trống rỗng. Ngày nay
người ta vào đảng chỉ để tạo quan hệ và tiến thân chứ không vì bất cứ lý tưởng
xã hội chủ nghĩa nào cả.” Có lẽ nhân tố kích thích quan trọng nhất dẫn đến tâm
trạng hoài nghi và chất vấn gia tăng về quyền lực [của đảng] là sự trỗi dậy của
thông tin liên lạc đại chúng qua internet. Chế độ kiểm duyệt trực tuyến của
Trung Quốc là một trong những chế độ nghiêm ngặt nhất thế giới, với Twitter,
Facebook, YouTube và vô số trang mạng và dịch vụ trực tuyến khác bị chặn bị
đang lo sợ rằng những trang mạng và dịch vụ này có thể được dùng để tổ chức hoạt động đối kháng chính
trị. Nhưng sự bùng nổ các trang mạng và dịch vụ nội địa do chính phủ
kiểm soát, ví dụ như mạng Vi Bác tương tự như Twitter, vẫn giúp cho người dân
phần nào né tránh tầm kiểm soát dư luận của đảng theo cách thức trước đây không
thể làm được. Khi nền kinh tế Trung Quốc chậm lại và người dân ngày càng phẫn
nộ về biết bao vấn đề xuất phát từ việc không được tham gia vào hoạt động chính
trị, chính sự mất kiểm soát về tư tưởng, ý tưởng và thông điệp này là điều
khiến đảng vô cùng lo ngại. “Bảy điều cấm bàn”
Thẩm Chí Hoa là giáo sư ở Đại học Sư
phạm Hoa Đông chuyên về Liên Xô và có ba mẹ là sĩ quan Quân Giải phóng Nhân dân
từng sát cánh cùng Mao Trạch Đông trong cuộc cách mạng. Hồi đầu thập niên 1980
ông ở tù hai năm sau khi bị buộc tội oan làm gián điệp cho CIA. Hồi tháng
9/2009, giáo sư Thẩm nằm trong số ít học giả tín cẩn được cựu chủ tịch Trung
Quốc Giang Trạch Dân triệu tập để thảo luận sự sụp đổ của Liên Xô. “Gorbachev
đã phản bội cách mạng,” Giang Trạch Dân nói với nhóm học giả này khi ông yêu
cầu họ xác định những nhân tố cụ thể dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô. Theo giáo
sư Thẩm, nhận định của Giang Trạch Dân là quan điểm chính thống được chấp nhận
trong giới lãnh đạo Trung Quốc trong đó có chủ tịch hiện nay Tập Cận Bình.
Trong một bài phát biểu với các đảng viên ngay sau khi ông được chọn làm tổng
bí thư và chủ tịch quân ủy trung ương hồi năm ngoái, Tập Cận Bình nói rằng đế
chế Liên Xô sụp đổ “vì không có ai đủ dũng khí đứng lên kháng cự”. Chuyên gia
Shambaugh của Đại học George Washington, nói: “Tôi có nhấn mạnh cũng không thừa
là giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp tục sống trong cái bóng Liên Xô
– họ hiểu rất rõ các cải cách mà Gorbachev thực hiện và tuyệt đối không chịu đi
theo con đường đó.” Việc Tập Cận Bình thể hiện thái độ mạnh mẽ phù hợp với lập
trường dứt khoát hơn mà ông bày tỏ trên trường quốc tế khi Trung Quốc tiếp tục
vào vai trò “siêu cường quốc thứ hai” của thế giới. Nhưng trong khi chính quyền
mới giễu võ dương oai ở nước ngoài, đáng chú ý nhất là những tranh chấp lãnh
thổ âm ỉ với các nước láng giềng ở phía đông, nam và tây, có vẻ nghịch lý là
chính quyền này càng lúc càng lo lắng và bất an ngay trong nước. Giáo sư Perry
Link nói: “Trung Quốc có sức mạnh về quân sự, ngoại giao và kinh tế nhiều hơn
so với trước đây và hiện nay Trung Quốc có thể mạnh dạn bảo các nước như Vương
quốc Anh và Mỹ tránh ra, chứ xưa kia không dám. Nhưng dù họ có được sức mạnh
mới như vậy trong đối ngoại, dường như trong đối nội họ lại mỏng manh hơn
nhiều, lo ngại nhiều hơn về việc họ còn trụ được bao lâu trên nắp vạc dầu đang
sôi sùng sục này.” Kể từ khi lên ngôi, Tập Cận Bình đã chỉ đạo một loạt các
cuộc đàn áp nặng tay đối với giới bất đồng, tự do ngôn luận, giới ly khai sắc
tộc và xã hội dân sự, và không hề bộc lộ dấu hiệu nào cho thấy ông là nhà cải
cách chính trị ngấm ngầm như một số người đã hy vọng. “Văn kiện số chín”, một
văn bản bí mật phân phát cho các cán bộ hồi tháng Tư và bị rò rỉ qua các phương
tiện truyền thông tiếng Trung ở nước ngoài, cho thấy ban lãnh đạo mới lo ngại
ra sao về những mối đe dọa được cảm nhận về sự cai trị của đảng. Văn kiện này
viết: “Các thế lực thù địch phương tây và các thành phần bất đồng trong nước
liên tục xâm nhập vào lĩnh vực ý thức hệ. Để giữ gìn sự nắm quyền của đảng,
chúng ta nên chú ý đến những cách suy nghĩ, lập luận và hành động sai lầm.”
Theo văn kiện này, đảng đang đấu tranh “khốc liệt” chống lại bảy mối đe dọa
nghiêm trọng mà hiện nay các giới học thuật Trung Quốc gọi là “bảy điều cấm
bàn”. Đứng đầu trong danh sách này là “nền dân chủ lập hiến phương tây”, tiếp
theo là những điều cấm kỵ như cổ xúy nhân quyền, hệ thống tư pháp độc lập, sự
độc lập của báo chí, và việc phê phán quá khứ của đảng. Giáo sư Thẩm Chí Hoa
nói: “Nhiều người vô cùng thất vọng về những lời nói và hành động [của Tập Cận
Bình]. Nhưng có một số người biện hộ cho ông và nói rằng sau khi củng cố quyền
lực của mình và ổn định tình hình chính trị, ông sẽ tiến hành cải cách.” Theo
cách lập luận này, thái độ dao động thiên về độc tài này của Tập Cận Bình chỉ mang
tính chiến thuật chứ không phải chiến lược, một cách để vận động sự ủng hộ của
các đảng viên trung kiên để chuẩn bị cho nghị trình cải cách gian nan trước
mắt. “Các lý giải bi quan hơn, và thật tình thực tế hơn, là Tập Cận Bình chẳng
có ý tưởng gì mới mẻ nên ông chỉ trích dẫn Mao Trạch Đông và cố bám víu quyền
lực,” một nhà cải cách thuộc hàng “thái tử đảng” vốn là con trai của một lãnh
tụ cấp cao Trung Quốc trước đây, người này hiểu Tập Cận Bình rất rõ nhưng yêu
cầu không nêu tên vì sợ hậu quả chính trị. “Nếu đúng như vậy, thì Trung Quốc
chẳng có hy vọng gì, và rốt cuộc nỗi phẫn nộ trong xã hội sẽ bùng nổ thành một
cuộc nổi dậy của dân chúng.” Đã hết phép màu? Trong ba thập niên kể từ
khi Đặng Tiểu Bình khởi xướng cải cách định hướng thị trường và bắt đầu mở cửa
Trung Quốc vươn ra thế giới, nền kinh tế nước này đã tăng trưởng với tỉ lệ
trung bình 10% mỗi năm. Thành tích tuyệt vời này đã đưa hàng trăm triệu người
dân ra khỏi cảnh đói nghèo và khiến một số người nhận định rằng “chủ nghĩa
Lenin thị trường” của Trung Quốc đã thách đố cái lý thuyết cho rằng các xã hội
sẽ dân chủ hóa khi giàu lên. Nhưng như Lưu Vũ, phó giáo sư chính trị học tại
Đại học Thanh Hoa ở Bắc Kinh, và Trần Định Định ở Đại học Macau, viết trong tạp
chí The Washington Quarterly hồi năm ngoái, “những ai theo thuyết
‘Trung Quốc là ngoại lệ’ đã phớt lờ rằng hiện nay còn quá sớm nên chưa thể nói
liệu Trung Quốc chứng minh hay bác bỏ lý thuyết hiện đại hóa.” GDP bình quân
đầu người của Trung Quốc là khoảng 9.200 đô-la tính theo ngang bằng sức mua
trong năm 2012, nhưng theo Lưu Vũ và Trần Định Định, con số này vẫn chưa đạt
đến mức khởi đầu của những nước có bối cảnh văn hóa và lịch sử tương tự khi họ
chuyển tiếp sang nền dân chủ. Theo Lưu Vũ và Trần Định Định, năm 1988, Hàn Quốc
và Đài Loan đang dân chủ hóa có GDP bình quân đầu người tính theo ngang bằng
sức mua lần lượt là 12.221 đô-la và 14.584 đô-la (theo mức giá 2010). Các mức
của Liên Xô và Hungary năm 1989, khi họ bắt đầu quá trình chuyển tiếp chính trị
của họ, lần lượt là 16.976 đô-la và 11.257 đô-la (theo mức giá 2010). Những con
số này cho thấy sự tăng trưởng kinh tế nhanh liên tục ở Trung Quốc sẽ đẩy đất
nước này đến đỉnh điểm chuyển biến chính trị chỉ trong vài năm nữa. Theo cách
lập luận này, nguyên nhân chủ yếu mang lại tính chính danh cho đảng kể từ khi
từ bỏ chủ nghĩa Mao – khả năng của đảng trong việc tạo ra tăng trưởng nhanh và
nâng cao mức sống – cũng chính là điều rốt cuộc sẽ khiến đảng mất quyền kiểm
soát chính trị tuyệt đối. Nhưng hiện nay có nhiều dấu hiệu rõ rệt cho thấy mô hình
kinh tế thiên về đầu tư, định hướng xuất khẩu, do nhà nước nắm vai trò chủ đạo
của Trung Quốc đang hết hơi và tốc độ tăng trưởng có thể giảm mạnh hơn so với
kỳ vọng của của Bắc Kinh. Tỉ lệ tăng trưởng danh nghĩa so sánh cùng kỳ hàng năm
của Trung Quốc đã giảm từ 17% trong quý tư 2011 xuống còn khoảng 8% trong quý
hai năm nay, và tỉ lệ tăng trưởng năm ngoái là mức thấp nhất trong 13 năm. Hầu
hết các nhà kinh tế học dự đoán rằng tốc độ này sẽ ở mức vừa phải trong vài năm
tới. Xét theo hầu hết các số đo, Trung Cộng hiện nay là một trong những xã hội
bất bình đẳng nhất thế giới, với hầu hết của cải tập trung trong tay một nhóm
nhỏ chóp bu có quan hệ chính trị. Nếu bước tăng trưởng chậm hiện nay chuyển
thành một cuộc khủng hoảng kinh tế hoặc gây thất nghiệp lan tràn, hầu hết các
nhà phân tích tin rằng chẳng mấy chốc chính quyền sẽ phải đương đầu với cuộc
nổi dậy của dân chúng dưới một hình thức nào đó. Mao Vu Thức, nhà kinh tế học
84 tuổi được xem là cây đại thụ của kinh tế học vĩ mô Trung Quốc hiện đại, nói:
“Trong hai thế kỷ qua, 30 năm gần đây nhất là thời kỳ kéo dài duy nhất không có
chiến tranh, nạn đói hay thanh trừng đại trà, một thời kỳ mà đời sống của mọi
người ngày càng tốt đẹp hơn. Tính chính danh của chế độ chủ yếu xuất phát từ
thành công của cải cách kinh tế nhưng vấn đề lớn là các kỳ vọng hiện nay ở mức
quá cao.”
Nhà kinh tế học lão thành này đã bị
thanh trừng nhiều lần trong thời kỳ Mao Trạch Đông. Trong 20 năm, ông nhiều lần
bị bắt đi lao động khổ sai ở nông thôn, bị đánh đập và sỉ nhục. Sau thời gian
cải tạo chính trị, năm 1993 ông thành lập Viện Thiên Tắc (Unirule
Institute), một tổ chức nghiên cứu kinh tế độc lập, và ông vẫn còn có ảnh hưởng
lớn đối với những nhà cải cách trong đảng và chính quyền. Mao Vu Thức tiên đoán
rằng Trung Quốc sẽ gặp một cuộc khủng hoảng tài chính “không thể tránh khỏi”
trong vòng từ một đến ba năm nữa do tích lũy nợ xấu quá nhiều và bong bóng bất
động sản khổng lồ, nhưng ông nghĩ chính điều này lại có thể đẩy đất nước đến
nền dân chủ. Ông nói: “Tôi nghĩ một cuộc khủng hoảng tài chính thực sự có thể
tốt cho Trung Quốc vì nó sẽ buộc chính phủ thực hiện các cải cách kinh tế và
chính trị. Đó là kịch bản lạc quan nhất, nhưng kịch bản xấu nhất sẽ là một cuộc
nổi dậy bạo lực, tiếp theo là một thời gian dài biến động và suy tàn kinh tế,
như ta thấy ở Ai cập.” Ví dụ tiêu cực Ai Cập hiện nay thường được các nhà phân
tích chính trị của cả Trung Quốc lẫn phương tây viện dẫn. Giống như nhà cựu độc
tài Ai Cập Hosni Mubarak, đảng cộng sản xưa nay đã rất thành công trong việc
đập tan bất cứ lực lượng có tổ chức nào trong xã hội trước khi nó có thể bén
rễ. Giáo sư Perry Link nói: “Hệ thống Trung Quốc hiện nay nhất định sẽ sụp đổ
vào một thời điểm nào đó – có thể là mấy tháng, mấy năm hay mấy thập niên,
nhưng khi nó sụp đổ hẳn nhiên ai ai cũng sẽ nói là chuyện đó đã chắc chắn xảy
ra. Câu hỏi thực sự làm tôi lo là những gì diễn ra sau đó. Đảng đã xóa sổ bất
cứ nhóm nào đảng không kiểm soát được hoặc không có cùng thế giới quan với
đảng, và sẽ không còn lại gì để thế chỗ cho đảng.” Lời nguyền Thế vận hội
Lịch sử có một trùng hợp lý thú là không có chế độ độc tài nào ngoại từ chế độ
của Mexico tồn tại hơn một thập niên sau khi đăng cai Thế vận hội – này nhé,
thử nhớ lại Berlin năm 1936, Moscow năm 1980, Sarajevo năm 1984 và Seoul năm
1988. Năm năm nữa, Đảng Cộng sản Trung Quốc, vốn xem Thế vận hội Bắc Kinh 2008
là “tiệc ra mắt” trên trường quốc tế, có thể không chỉ thách thức lời nguyền
Thế vận hội này mà còn phá kỷ lục tuổi thọ của Liên Xô và góp phần bác bỏ
thuyết dân chủ hóa. Nhưng ngay cả những người ủng hộ đảng nhiệt thành nhất cũng
thừa nhận rằng giới lãnh đạo Trung Quốc không thể cai trị mãi mà không đáp ứng
các yêu sách được tham gia hoạt động chính trị của một tầng lớp trung lưu ngày
càng đông đảo quan tâm nhiều hơn về không khí trong lành, nước sạch, chính phủ
trong sạch và thực phẩm an toàn hơn là tỉ lệ tăng trưởng GDP. Sau ba thập niên
phát triển kinh tế xuất sắc, mô hình tăng trưởng của Trung Quốc đang bắt đầu
hụt hơi và nếu phải đối mặt với sự sút giảm đột ngột, đảng sẽ đánh mất nguyên
nhân đáng thuyết phục nhất mang lại tính chính danh của đảng. Nếu chủ tịch mới
của Trung Quốc, Tập Cận Bình, nắm thế chủ động và khởi xướng các cải cách chính
trị có ý nghĩa, thì Trung Quốc có thể noi gương Đài Loan và Hàn Quốc vào cuối
thập niên 1980 và 1990, và dàn xếp một quá trình chuyển tiếp êm thắm sang một
hệ thống đa nguyên và dân chủ hơn. Tại ngôi trường rợp bóng cây của Trường Đảng
Trung ương, một số giáo sư hiện đã nghiên cứu làm sao để đạt được kỳ tích như
vậy. Nhưng đến nay Tập Cận Bình chưa tỏ ý muốn làm gì ngoài việc siết chặt sự
kiểm soát quyền lực của đảng và trừng trị những ai nghi vấn chế độ cai trị độc
đảng vĩnh viễn. Nhiều người trong và ngoài đảng lo ngại rằng do cố gắng trấn áp
nỗi bất bình ngày càng tăng của dân chúng bằng những công cụ đàn áp cũ, một
ngày nào đó chính quyền mới có thể tỉnh dậy và thấy quần chúng xuống đường biểu
tình. Giáo sư Thẩm Chí Hoa nói: “Tập Cận Bình và chính quyền này tạo ra cơ hội
cuối cùng để Trung Quốc thực hiện sự chuyển biến xã hội [sang một hệ thống
chính trị tự do hơn] xuất phát từ bên trong đảng và từ bên trong hệ thống. Nếu
không có những cải cách này, chắc chắn sẽ có sự bùng nổ xã hội.”
Nguồn: Jamil Anderlini, How long can the Communist party
survive in China?, Financial Times Magazine, 20/9/2013.
Bản tiếng Việt © 2013 Phạm Vũ Lửa Hạ
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ