Tố Hữu và bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
…Mình hoan hô chiến sĩ Điện Biên,
hoan hô ông Giáp. Lúc ấy, đại tướng võ Nguyên Giáp oanh liệt lắm. Người ra trận
cơ mà. Một ông Tổng tư lệnh ra trận...
- Thế sao sau này, trong những tập
tái bản gần đây, anh lại cắt câu ấy đi?...
I
Tố Hữu là một nhà thơ lớn. Nói đúng
hơn, ông là nhà thơ lãng mạn cách mạng. Cả cuộc đời ông gắn bó với cách mạng.
Thơ với đời là một. Trước sau đều nhất quán. Tố Hữu nhìn cách mạng bằng con mắt
lãng mạn của một thi sĩ. Thơ ông dường như chỉ có một giọng. Đó là giọng hát
tưng bừng ca ngợi cách mạng. Đọc ông trong bất cứ hoàn cảnh và tâm trạng nào,
ta cũng thấy phấn chấn, náo nức như đi trẩy hội. Đến đâu cũng nghe vang tiếng
trống, tiếng kèn. Mà thơ ông đâu chỉ có trống phách linh đình như một đám rước,
ông còn bắn cả 21 phát đại bác vang trời. Cho đến nay, chỉ có ông là nhà thơ
Việt Nam duy nhất đã bắn đại bác trang trọng như thế. Trong tâm hồn lớn lộng
gió của ông không có những góc khuất, những vùng tối, những nẻo đường hiu
quạnh, những thành quách nhàn nhạt một màu rêu cô liêu. Nghĩa là không có chỗ
nương náu cho những nốt nhạc lạc điệu, xa lạ và trầm buồn. Đôi khi, những nỗi
niềm vu vơ có ở thời Từ ấy lại lần theo một con đường riêng nhuốm màu thiên
nhiên, chìm lẩn trong tiềm thức mà tìm về với ông, thì ông lại tự xoá đi, để
tiếng hát ông chỉ còn một âm hưởng chủ đạo. Âm hưởng vui bất tuyệt.
Nếu mỗi nghệ sĩ là một người thư ký
của thời đại, theo quan niệm Balzac, thì Tố Hữu chính là người thư ký của cách
mạng. Thơ ông là biên niên sử cách mạng. Có thể lần theo dấu vết thơ ông mà tìm
những bước thăng trầm của cách mạng, của kháng chiến. Chính vì thế, trong những
ngày cả nước long trọng kỷ niệm 40 năm ngày chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ,
tôi tìm lại thơ ông, tra cứu thơ ông, như tra cứu một cuốn tự điển cách mạng.
Tôi lật trang Điện Biên Phủ và lập tức lại gặp ngay tiếng reo vui tưng bừng
quen thuộc của ông: Hoan hô chiến sĩ Điện Biên. Đây là bài thơ khá nổi tiếng
của Tố Hữu. Bài thơ cung cấp cho ta nhiều con số và những tư liệu lịch sử. Qua
thơ mà ta biết cuộc kháng chiến chống Pháp kéo dài ba ngàn ngày. Chiến dịch
Điện Biên Phủ từ lúc mở màn đến khi kết thúc thắng lợi là 56 ngày đêm. Trong thời
gian này, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đang ở Việt Bắc. Trên bàn làm việc dã
chiến của Người có bản đồ Điện Biên Phủ. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đi hội đàm với
Chính phủ Pháp ở Paris. Trưởng phái đoàn ngoại giao của Pháp là Biđôn
(Bidault). Trưởng phái đoàn ngoại giao của Mỹ là Smit (Smith). Còn đại tướng Võ
Nguyên Giáp thì dàn quân ở giữa trận tiền. Và bạt ngàn bộ đội, dân công đi tiếp
lương, tải đạn, kéo pháo, mở đường. Lương thực, đạn được vận chuyển đến Điện
Biên bằng hai phương tiện chính: thồ và gánh. Đời sống tinh thần của bộ đội và
dân công ta ở cái thời ấy cũng được Tố Hữu ghi chép khá tỉ mỉ: người ta động
viên nhau, thúc đẩy nhau bằng tiếng hát. Những điệu hò lơ, hấy lơ vang vọng
khắp các triền đèo hiểm trở Lũng Lô, Pha Đin. Như thế, xem ra, việc chuẩn bị
chiến đấu vất vả, gian khổ nhưng vui. Rõ ràng đi kháng chiến như đi trẩy hội.
Còn khi đã chiến đấu thì thật ác liệt. Có thể nói đó là cuộc chiến đẫm máu.
Người khoét núi đặt bộc phá. Người bịt lỗ châu mai. Người lấy thân chèn pháo.
Và máu người đã nhuộm đỏ cánh đồng Mường Thanh. Máu trộn với bùn đất. Chỉ một
chi tiết này, ta biết chiến dịch mở vào mùa mưa. Đó là một thử thách không nhỏ
đối với người lính Điện Biên Phủ. Tất cả những tư liệu lịch sử có tính thông
tấn báo chí ấy, đã được Tố Hữu biến thành tình cảm, giai điệu. Và bao phủ lên
nó là một bầu không khí hừng hực. Bầu không khí Điện Biên.
Tố Hữu có đi chiến dịch không? Ông
viết bài thơ này trong trường hợp nào? Lúc ấy ông ở đâu? Ông đang làm gì, giữ
những trọng trách gì? Chiến thắng Điện Biên đến với ông ra sao? Đấy là những
câu hỏi mà độc giả hôm nay tò mò muốn được giải đáp. Nhưng ai giải đáp nổi? Chỉ
có thể là Tố Hữu. Và chúng tôi được giao một nhiệm vụ rất cụ thể: tìm đến gặp
Tố Hữu, rồi lân la hỏi chuyện ông.
II
Chúng tôi tập kích vào nhà Tố Hữu,
đúng theo cách tiếp cận của lính Điện Biên Phủ. Ngay lập tức nhà thơ lớn đã bị
bốn anh em lính báo bao vây. Ngoài tôi và nhà phê bình Hồng Diệu, còn có thêm
Khánh Chi, Trường Giang - hai phóng viên trẻ của báo Đại đoàn kết. Bây giờ thì
Tố Hữu đã ngồi gọn giữa mấy anh em chúng tôi. Trông ông trầm tĩnh như một ngọn
tháp cổ kính. Mà không, ông như một vị nguyên soái đã giã từ vũ khí, giã từ mọi
thứ xiêm áo lỉnh kỉnh mà tạo hoá đã bỡn cợt khoác lên ông, nhiều khi che khuất
cả chính ông, để ông chỉ còn lại là một già làng, có phần cô đơn, bé nhỏ, da
mồi, mái tóc bạc trắng sương gió, dường như đã quá quen với trận mạc, với mọi
biến cố, thăng trầm của cõi đời dâu bể. Lơ lửng ở đâu đó trong khoảng u u minh
minh trên mái đầu ngả bạc của ông, hình như vẫn còn lung liêng, vẫn còn chao
lắc cái con quay mờ mờ nhân ảnh của ông Trời. ý nghĩ ấy đến với tôi khi tôi
đang thành kính ngắm ông như ngắm một viện bảo tàng. Còn ông thì ngồi im lặng.
Đôi mắt riu riu nửa thức, nửa ngủ, có lúc lơ đãng vô vi như một người đang nhập
thiền, có lúc lại ánh lên, long lanh sáng như mảnh thuỷ tinh vỡ. Vào những giây
khắc mong manh đó, tôi chợt thấy ông vẫn còn là một vị tướng soái, với đầy đủ
mũ áo cân đai. Còn bây giờ, ông có vẻ như hơi ngỡ ngàng. Ông đưa mắt nhìn lũ
chúng tôi là mở chiến dịch rút lui quyết không dây với lũ trẻ ranh.
- Chuyện Điện Biên ấy mà, nói thực
là mình biết không nhiều lắm đâu. Cái này các cậu phải đến gặp Hồ Phương, Hữu
Mai, hay Từ Bích Hoàng. Các anh ấy đi chiến dịch Điện Biên, các anh ấy biết
nhiều chuyện đấy.
- Chuyện Điện Biên thì bạn đọc cũng
đã biết rồi, vừa qua mấy anh em làm báo đã sục vào hầm De Castries, còn lặn lội
vượt đèo leo suối vào tận sở chỉ huy ta ở Mường Phăng. Anh Lê Lựu đã đến gặp
đại tướng Võ Nguyên Giáp. Anh Hồng Diệu đã gặp ba thiếu tướng Hồ Phương, Chu
Phác và Dũng Hà. Mấy anh em còn tham khảo cả tài liệu của Pháp nói về Điện
Biên. Nghĩa là nhìn Điện Biên ở mọi góc độ khác nhau. Bây giờ, mấy anh em muốn
hỏi anh về bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên.
Tố Hữu cười:
- Bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
thì cũng chẳng có gì phải nói thêm nữa. Mình đã viết cả ra rồi. Có gì cũng nói
tuột ra hết. Thơ mình là thế, là cứ nói thẳng tuồn tuột, chẳng có gì khuất khúc
cả.
- Vâng, bài thơ nói được nhiều điều
lắm. Đầy ắp tư liệu thông tin. Nhưng có thông tin mà bạn đọc bây giờ tò mò muốn
biết thì bài thơ lại không nói đến. ấy là thông tin về tác giả. Khi viết bài
thơ này, anh đang ở đâu?
Tố Hữu ngồi im lặng. ánh mắt bỗng xa
vợi. Hình như ông đang lục trong trí nhớ, cố tìm một hình ảnh nào đó, một bóng
dáng nào đó của kỷ niệm xa mờ.
- Chịu, không thể nhớ được. - Tố Hữu
quay về phía tôi. - Mình già rồi, u mê rồi. Có lẽ các anh ở cục tác chiến, quân
bưu, các anh ấy nhớ, chứ mình thì quên mất rồi. Cái bản ấy, nó có cái tên là
khau khau gì đấy. Hồi đó, mình là trưởng ban tuyên truyền. Suốt ngày chỉ hong
hóng chờ tin tức từ chỗ anh Trường Chinh, hoặc lại chạy sang bên Bộ Tổng, Quân
uỷ trung ương, chỗ anh Văn, hỏi xem có đánh nhau ở đâu thì viết bài tuyên
truyền. Mà viết xong cũng chẳng biết đưa cho ai nữa. Hồi ấy, phương tiện tuyên
truyền của ta còn nghèo lắm, sơ sài lắm, đâu có được phong phú như hồi chống
Mỹ. Công cụ tuyên truyền chỉ có mỗi tờ báo Nhân Dân với cái đài 500 oát. Còn
thì phần lớn là tuyên truyền mồm quan cánh dân công. Mỗi trận đánh thắng, tự
thân nó đã có sức tuyên truyền rồi. Nó lan xa lắm, lan nhanh lắm. Còn chuyện
Điện Biên thì sau này mới rầm rộ. Hò kéo pháo. Điện Biên bấy giờ im ắng lắm. Ta
âm thầm chuẩn bị lực lượng. Không ai có thể nghĩ được rằng, ta lại có thể đưa
được quân, đưa được pháo vào Điện Biên. Thực tế khách quan thì không thể làm
được. Đường sá hiểm trở lắm, toàn những đèo dốc, vực thẳm. Gay go nhất là việc
vận chuyển lương thực, thực phẩm. Cái này, phải nói là dân mình ghê gớm thật.
Chỉ có đôi vai, đôi bồ, khá hơn cái xe đạp tồng tộc, mà rồi từ Thanh Hoá, từ
đồng bằng Bắc Bộ mò mò đưa gạo lên. Hạt gạo nặng bằng hạt máu. Phải nói ý chí
của dân mình rất ghê gớm. Họ nhịn đói, nhịn khát, ăn lá lảu dọc đường. Dừng
nghỉ thì nói chuyện thịt bò, nói chuyện nướng chả, làm thịt cầy, cứ như mình
đang liên hoan, đang ăn thịt, mà toàn ăn thịt... mồm.
- Vậy tin toàn thắng đến với anh lúc
nào?
- Lúc ấy khoảng 5h30 hay 6h chiều
ngày 7-5. Rừng đã nhá nhem tối mới có điện từ chỗ anh Trường Chinh xuống. Mình
mừng quá. Cái chuyện Hoả tốc, hoả tốc - Ngựa bay lên dốc ấy là có thật. Đấy là
con ngựa của chú liên lạc ở chỗ anh Trường Chinh. Và cũng chỉ có mỗi con ngựa
với chú liên lạc, chứ làm gì có Đuốc cháy sáng rừng, với Làng bản đỏ đèn đỏ
lửa. Khi viết thì mình viết thế. Viết thế mới tạo được không khí, chứ làm gì có
lửa mà đỏ rừng đỏ bản. Thực tế lúc ấy, nhìn ra xung quanh, rừng núi tối mù mù.
Chỉ có vài ngôi nhà ở triền núi xa xa có ánh lửa le lói, chắc họ đang nấu cơm
hay nướng sắn gì đó. Thế mà mình viết: Đuốc chạy sáng rừng - Loa kêu từng cửa.
Cũng chẳng có loa đâu. Mà loa với ai. Dân ở xa. ở gần dân e bị lộ. Nguyên tắc
là bí mật tuyệt đối. Cơ quan trung ương ở trong rừng, ở giữa lau tre. Mình ở
nhà đất. Anh Trường Chinh cũng ở nhà đất. Chỉ có Bác ở nhà sàn. Ông cụ có đặc
tính là thích ở nhà sàn, và ở bên suối. Ông cụ vốn là người yêu sơn thuỷ hữu
tình. Cơ quan trung ương cũng đóng dọc bên suối, lán chìm trong cây lá. Rừng
che bộ đội, rừng vây quân thù mà. Bí mật là một nguyên tắc. Vậy thì loa với ai.
Thế mà vẫn loa kêu từng cửa. Làng bản đỏ đèn đỏ lửa. Hầy, nghe vui hỉ, nghe
cũng rậm rật đấy chứ hỉ - Rồi Tố Hữu quay lại mấy anh em, nheo nheo một bên
mắt, vẻ trẻ trung, tinh nghịch - Này xem ra không thể tin cánh văn nghệ được
đâu hỉ. Phịa, toàn là phịa. Chỉ có điều là mình phịa như thật, nên người ta cũng
tha cho.
Rồi Tố Hữu lại cười. Nụ cười thật
hiền hậu. Trông ông lúc này có vẻ của một ông Phật, Hồng Diệu hỏi:
- Thế từ lúc mở màn đến khi kết thúc
chiến dịch anh có lên Điện Biên bao giờ không?
- Không! Nào mình có biết Điện Biên
ở đâu mà đi. Đi sao được. Mà ai cho đi cơ chứ.
- Tưởng anh là trưởng ban tuyên
truyền, anh có thể đi khắp nơi chứ.
- Đâu có. Ông nói thế là nói cái anh
tuyên truyền sau này, tuyên truyền bây giờ. Chứ lúc ấy, đi sao được. Mình cứ
ngồi im chờ lệnh cụ Trường Chinh.
- Tưởng anh viết Mường Thanh, Hồng
Cúm, Him Lam...
- à, cái đấy mình hỏi. Mình hỏi mấy
chú đã đến Điện Biên rồi. Hỏi xem ở đấy có những cái gì, mới biết mấy cái địa
danh như thế đấy chứ, biết cả ở đó có cam, có mơ và rất nhiều hoa mơ. Chỉ mang
máng thế thôi. Và rồi những cái mang máng ấy, cũng chẳng biết sẽ để làm gì. Sau
này khi viết, mình mới lôi nó ra, đưa vào thơ, cứ nhét bừa vào. Nó mới thành:
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam / Hoa mơ lại trắng vườn cam lạ vàng. Đấy, đơn
giản thế đấy.
Rồi Tố Hữu lại cười. Hoá ra ông Phật
này cũng thích đùa lắm. Ông nói mà cứ như nói đùa, và tôi nghĩ, phải là người
uyên thâm lắm, thông minh và lịch lãm lắm mới có thể nhìn mọi sự đơn giản như
thế, mới có thể đùa được như thế. Đùa là một phẩm chất của trí tuệ. Thực tình,
hai câu thơ mà Tố Hữu vừa nhắc đến, như nhắc đến một giai thoại vui kia, là hai
câu thơ hay, nếu không nói là hay nhất trong bài. Đặt trong cái không khí của
toàn bài, nó mới đắc địa, như người ta đang nghe một bản giao hưởng chát chúa
toàn những kèn đồng, lại thấy vút lên mảnh mướt một tiếng sáo trúc đồng quê mát
mẻ. Câu thơ ghép toàn những địa danh. Đưa địa danh vào thơ đâu có dễ dàng gì.
Nhưng Tố Hữu có biệt tài trong cái kỹ nghệ ngày. Địa danh vào thơ ông thường
rất nhuần nhuyễn. ở đây, dường như nó không còn là địa danh nữa, nó là kỹ nghệ
chơi chữ cao, chơi chữ mà không thấy dấu vết của việc chơi chữ, chỉ có hai câu
thơ với tên rừng, tên núi cụ thể mà Tố Hữu đã kết được thành một vòng hoa rực
rỡ sáu màu. Đấy là vòng hoa tưởng niệm các liệt sĩ đã hy sinh ở chiến trường
Điện Biên lịch sử. Xuân Diệu là người đã có công trong việc phát hiện ra cái
vòng hoa thầm lặng đó.
- Sau này, ông Diệu ông ấy có khen
tôi. Ông ấy tán ra thế, tôi mới biết nó như thế đấy chứ. Thực ra, đó là mấy cái
địa danh có sẵn, địa danh có màu, dưới lại có trắng, có lam, có vàng. Cũng lại
là màu nữa. Nó mới thành tấm thảm nhiều màu. Cái này, những anh em lý luận họ
gọi là gì hỉ? Là tiềm thức à? Nghĩ cũng có lý hỉ?
Ngừng một lát, Tố Hữu tiếp:
- Bài thơ Điện Biên được viết nhanh
lắm. Sau chiến thắng, tôi lên Bác ngay. Lên xin ý kiến Bác xem cần tuyên truyền
thế nào. Có điều lạ là Bác rất bình thản. Bác bảo: Đây chỉ là chiến thắng bước
đầu thôi. Sao các chú cứ rối lên thế. Ta đánh thì tất nhiên là sẽ thắng. Quân
đội ta là quân đội quyết chiến, quyết thắng cơ mà. Bác khen các chú đánh giỏi.
Nhưng đừng rối lên. Phải cảnh giác. Hết sức cảnh giác. Chiến tranh chưa kết
thúc đâu. Kẻ thù ta bây giờ không phải là Pháp nữa, mà là Mỹ. Không khéo chuyến
này, ta phải đánh nhau với Mỹ, còn lâu dài đấy, gian khổ đấy, đừng có tếu. Điều
đáng kinh ngạc là Ông Cụ lại nói chuyện ấy ngay trong ngày chiến thắng Điện
Biên. Tôi đã đọc một loạt những hồi ký viết về Ông Cụ ở thời điểm này, nhưng
không thấy ai nói đến chuyện đó. Cũng trong cuộc gặp ấy, Ông Cụ bảo tôi làm
tuyên truyền. Ông Cụ có bảo tôi làm thơ đâu, làm tuyên truyền động viên bộ đội
đấy chứ. Tuyên truyền làm sao cho dân vui là được rồi. Tôi về, suốt đêm không
ngủ được, cứ vẩn vơ mãi. Tôi nghĩ: tuyên truyền bằng thơ là tốt nhất. Thơ dễ
phổ biến, dễ nhớ, dễ thuộc. Mình không nhận ra trận, nhưng cũng nghe lỏm được
khối chuyện. Chỉ tội, chẳng biết Điện Biên ra sao. Rồi thì đèo Pha Đin, đèo
Lũng Lô cũng chẳng thể hình dung được. Tôi bèn đến hỏi Bác, Bác ngửa cái mũ lá
ra: Điện Biên nó như thế này này. Nó là một lòng chảo. Đấy, cũng chỉ mang máng
thế thôi. Thế rồi thì tôi viết, viết nhanh lắm, viết không đến hai ngày. Những
gì mình nghe được về Điện Biên, mình cho vào thơ hết, cho nó có vần có điệu, vì
nhịp thơ nó đi như thế. Lục bát thì còn phải cò cưa ký cưa, chứ ở đây, mình cho
nó nổ lung tung lên, chẳng việc gì phải giữ đúng khuôn khổ. Có lẽ đây là bài
thơ tự do nhất, viết sảng khoái nhất. Hồi Cách mạng tháng Tám, mình cũng có bài
thơ sảng khoái như vậy. Bài thơ nói về cái con chim gì ấy nó hót hót ấy...
- à, đấy là bài Huế tháng 8 - Hồng
Diệu chợt như bừng tỉnh - Có con chim nào trong tóc, nhảy nhót hót chơi. Ha! Nó
hót cái gì vui vui nghe thiệt ngộ.
- ờ, đại khái là như vậy.
Tố Hữu cười. Mấy anh em cùng cười.
Không khí trong căn phòng thật ấm cúng vui vẻ. Tố Hữu tiếp tục câu chuỵện và
Hồng Diệu lại làm bà Trần Thị Tuyết minh hoạ thơ cho ông. Phải nói trí nhớ của
nhà tầm chương trích cú này cũng đáng hãi thật. Hầu như anh thuộc hết thơ Tố
Hữu, kể cả những câu thơ trong quá trình sửa chữa, ông đã vứt rồi, mà Hồng Diệu
vẫn còn thuộc. Anh đọc cho Tố Hữu nghe bằng một giọng von vót nửa kim, nửa
thổ.Tiếng reo núi vọng sông rền...
- à , cái đó mình cũng phịa đấy. -
Tố Hữu cắt ngang giọng đọc đầy hào hứng của Hồng Diệu. - Hồi đó, đang phải bí
mật, có ai dám reo hò đâu. Nhưng phải viết thế, phải tạo không khí như thế mới
có cớ mà hoan hô chứ. Mình hoan hô chiến sĩ Điện Biên, hoan hô ông Giáp. Lúc
ấy, đại tướng võ Nguyên Giáp oanh liệt lắm. Người ra trận cơ mà. Một ông Tổng
tư lệnh ra trận...
- Thế sao sau này, trong những tập
tái bản gần đây, anh lại cắt câu ấy đi?
- Đâu, mình có cắt đâu - Tố Hữu ngạc
nhiên. Mình chẳng biết gì đến chuyện ấy cả. Mình vẫn giữ đấy chứ, mà mình thấy
cũng không có gì phải cải chính.
- Bài thơ này khi anh viết xong rồi,
Bác Hồ có đọc không?
- Có chứ - Tố Hữu cười - Khi in ra,
chắc Ông Cụ có đọc.
- Thế Ông Cụ nói sao?
- Ông Cụ chẳng nói sao cả. Chưa bao
giờ Ông Cụ khen thơ tôi. Chỉ có anh Trường Chinh thì có khen, ví tôi với ông
này, ông khác, nhưng anh ấy cũng nói tào lao cho vui thế thôi, còn Bác thì chưa
bao giờ khen thơ tôi cả. Sau Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, tôi viết tiếp Ta đi
tới và Việt Bắc...
Đây là thời kỳ sáng tác sung sức
nhất của Tố Hữu. Trong ba bài thơ viết cùng một giai đoạn ấy, Việt Bắc là một
kiệt tác, dù còn lẫn mấy câu vè. Hai bài thơ còn lại cũng như phần lớn thơ Tố
Hữu, sẽ bất tử nhờ lịch sử. Bởi nó đề cập đến những cái mốc lịch sử. Mỗi bài là
một trang biên niên sử. Mà đề cập đến lịch sử, viết về lịch sử thì không ai
bằng được ông. Chiến thắng Điện Biên đã qua 40 năm rồi, đã có hàng trăm bài thơ
viết về sự kiện này, nhưng cho đến nay, quả thật vẫn chưa có bài thơ nào viết
về Điện Biên vượt bài thơ ông. Cái hay của bài thơ không nằm trong câu chữ cụ
thể mà nằm trong cái hơi chung của toàn bài.
- à, lại nói về cái tên bài thơ. -
Tố Hữu tiếp tục tâm sự - Lúc đầu mình lấy tên là Điện Biên Phủ. Nhưng sau nghĩ
thấy không ổn. Điện Biên Phủ chỉ là một cái địa danh. Mình đổi thành Chiến
thắng Điện Biên, cũng lại thấy vô duyên. Nghe nó như tên một bài báo. Mình đọc
lại bài thơ, thấy có câu Hoan hô chiến sĩ Điện Biên. Thôi, lấy té luôn như thế
cho rồi. Cái tên ấy hợp với không khí toàn bài - Tố Hữu nhìn sang tôi, sảng
khoái như một người vừa thắng xong một trận đánh hóc hiểm - Thơ Khoa có lẽ
chẳng bao giờ có hoan hô đâu nhỉ. Còn tôi thì tôi cứ hoan hô. Tôi còn hô cả
khẩu hiệu nữa cơ. Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Muôn năm, muôn năm Mác -
Lênin. Đấy, tôi hô khẩu hiệu đấy, tôi chả sợ. Tôi muốn nói rằng: Không có cái
gì là không thành thơ được. Tôi cho cả Nguyễn Văn Trỗi hô: Hồ Chí Minh muôn
năm. Mà hô những ba lần kia.
Tất nhiên, sau ba câu khẩu hiệu Hồ
Chí Minh muôn năm, Tố Hữu đã hạ một câu thơ thật là thần tình: Phút giây thiêng
anh gọi Bác ba lần. Và thế là ngay lập tức, mấy câu khẩu hiệu khô khốc trên kia
đã không còn là khẩu hiêu nữa, nó đã thành tình cảm, xúc cảm, thành nỗi niềm
thiêng liêng của cả một đời người ở cái giây phút hiểm nghèo nhất. Và người đọc
bỗng ứa nước mắt. Đấy là tài nghệ của một bút pháp lớn. Bút pháp bậc thầy.
Câu chuyện Điện Biên tạm thời kết
thúc. Tố Hữu quay sang hỏi Khánh Chi và tôi, cũng vẫn những chuyện văn chương.
Khi chia tay ông, Khánh Chi mới rụt rè đề nghị:
- Bác Tố Hữu ơi, bạn đọc ở báo Đại
đoàn kết lại còn có yêu cầu này nữa. Họ muốn có mấy dòng chữ và chữ ký của bác.
Bác chép cho một đoạn thơ nào đó trong bài Hoan hô chiến sĩ Điện Biên.
Tố Hữu vui vẻ:
- ờ thì đưa sổ đây, có bút không?
Nhưng khi đặt cuốn sổ của Khánh Chi
lên đầu gối rồi thì Tố Hữu lại lưỡng lự. Hình như ông đang tính xem nên chọn
câu thơ nào. Hồng Diệu liền tham mưu:
- Xin anh chép đoạn này: Điện Biên
vời vợi nghìn trùng / Mà lòng bốn biển nhịp cùng lòng ta...
- Không, không được. - Tố Hữu lắc
đầu - Phải chọn đoạn khác. Cái đoạn nói về huân chương. ờ, mà tại sao bây giờ,
người ta lại không thích đeo huân chương nhỉ. Đối với tôi, huân chương bao giờ
cũng có ấn tượng rất mạnh.
Rồi ông cúi xuống viết vào cuốn sổ
tay của Khánh Chi:
Kháng chiến ba ngàn ngày
Không đêm nào vui bằng đêm nay
Đêm lịch sử. Điện Biên sáng rực
Trên đất nước, như huân chương trên
ngực
Dân tộc ta, dân tộc anh hùng...
Tố Hữu chép rõ từng nét chữ. Hồng
Diệu đọc cho ông chép. Thỉnh thoảng, ông lại ngẩng lên, âu yếm chờ Hồng Diệu
đọc tiếp. Tôi nhìn ông, ngỡ ngàng. Một nhà thơ lớn, nổi tiếng vào loại bậc nhất
của nền thơ đương đại Việt Nam ngồi chép lại thơ mình, chép từ trí nhớ của một
độc giả. Thật chẳng có gì sung sướng hơn được nhân dân thuộc thơ mình. Đấy
chính là tấm huân chương cao quý nhất mà nhân dân đã trao tặng thi sĩ. Hạnh
phúc lớn lao ấy, tạo hoá đâu có ban phát cho nhiều người.
Tháng 5-1994
Trần Đăng Khoa
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ