Thứ Bảy, 28 tháng 2, 2015

Trò chuyện với cựu Trung tướng Đặng Quốc Bảo

 Đại tá Tạ Cao Sơn và Đại tá Quách Hải Lượng ghi ngày 26/6/2009* 

Lời giới thiệu: Tướng Đặng Quốc Bảo sinh năm 1928, là trung tướng về hưu, từng là uỷ viên trung ương ĐCS VN tại Đại hội IV (cuối 1976), từng là Hiệu trưởng trường đại học kỹ thuật quân sự trong thời chiến, sau đó là Bí thư thứ nhất Đoàn Thanh niên CS Hồ Chí Minh, rồi thứ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, cuối cùng là Trưởng ban Khoa giáo TW đảng. Nhiều người cho rằng, những ý kiến táo bạo của ông Trần Xuân Bách trong đầu những năm 1990 có nhiều ý tưởng của ông Bảo trong đó.

Có mấy vấn đề: 1) Bàn về chủ thuyết phát triển; 2) Hiểu biết thế giới toàn cầu hóa; 3) Chống độc tài, thực hiện dân chủ.
I. Phát triển
Muốn phát triển, điều đầu tiên, yếu tố đầu tiên là phải giữ được an ninh quốc gia. An ninh quốc gia ở đây nổi lên là vấn đề Trung Quốc. Không xử lý vấn đề Trung Quốc, không thể phát triển. Trong mọi khó khăn, cái khó khăn nhất là đối phó với Trung Quốc.
Vậy, trong vấn đề phát triển của Việt Nam phải đặt vấn đề Trung Quốc lên hàng đầu. Có 5 điều kiện thực hiện phát triển của Việt Nam:
1. Khắc phục vấn đề Trung Quốc;
2. Nhận thức đúng về chủ nghĩa tư bản. Phải thấy: nó không chết, nó có nhiều biến động, vận động nội tại rồi biến thành một xã hội tốt đẹp hơn. Hiểu như vậy ta sẽ chung sống và lợi dụng được nó để có thêm điều kiện phát triển. Chủ nghĩa tư bản phát triển có cơ chế và yếu tố chống độc tài. Những người cộng sản không học được điều này ở CNTB. Cho nên, khi lên cầm quyền đã thâu tóm quyền lực vào Đảng, rồi chỉ là một tập đoàn, một nhóm người, cuối cùng là quyền lực của một người. Đảng Cộng sản độc tài là như vậy. Chúng ta cần tạo cho chủ nghĩa tư bản xuất hiện ở Việt Nam.
3. Phải tham gia luật chơi chung, luật chơi chung của thế giới và Liên hợp quốc. Tạo chỗ đứng của Việt Nam trong các lĩnh vực trên thế giới, phải thâm nhập, hòa nhập, để người ta trợ giúp cho chúng ta.
4. Chúng ta phải liên kết chặt chẽ với khối ASEAN và phấn đấu thành minh chủ của ASEAN và phải thông hiểu chính Việt Nam có văn hóa đa dạng, có trí tuệ (bây giờ ý Đảng lòng dân đang ở trong trạng thái nào?).
5. Chiến dịch chuyển văn minh, trí tuệ, kế tiếp các đời sau. Phải có cải tạo về chính trị, chống độc tài. Hễ ai lên (những người thoát thai từ xã hội), có thế lực, có quyền lực là y như trở thành độc tài.
Các cậu cứ nghĩ mà xem, có học văn hóa chưa hẳn đã đủ. Trong các bậc cách mạng đi trước chúng ta Bác Hồ tự nhận là không được học hành đến nơi đến chốn, cố tranh thủ những nơi có thể cho mình nhiều tri thức của thế giới, nhưng thực dân đế quốc không cho.
Các anh Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp có học nhưng nhiều khuyết tật. Nếu anh nào lên nắm quyền lực rồi cũng độc tài. Năm xưa anh Trường Chinh có gọi tôi lên để nói chuyện. Chúng tôi là anh em thúc bá. Anh Trường Chinh nói: người ta phản ánh lên Bộ Chính trị rằng chú chống lại Đại hội 4, chống chủ nghĩa xã hội, chú lãnh đạo Đoàn Thanh niên đối lập với Đảng Cộng sản.
Các cậu có biết tôi trả lời ra sao không?
Tôi thẳng thắn trả lời: những phản ánh đó là đúng, là sự thực. Tôi chống Đại hội 4 (cứ nói như vậy) vì tôi thấy chủ nghĩa xã hội suy thoái, tôi cảm thấy chủ nghĩa xã hội đổ vỡ, khi Trung Quốc chống lại Liên Xô là bắt đầu đổ vỡ hệ thống xã hội chủ nghĩa rồi (sau này Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là sự chứng minh cho suy nghĩ của tôi lúc đó); thế rồi sự nổi dậy của 5 vạn trí thức (các tiến sĩ, giáo sư, các nhà khoa học) họ sẽ chống lại những cái sai, cái bảo thủ. Vì Đảng Cộng sản đã không thể hiện được vai trò chỉ đạo của chủ nghĩa Mác, không khoa học, đi vào chủ nghĩa cá nhân. Làm gì có cái chủ nghĩa làm chủ tập thể. Cái cậu Tương Lai nói nhiều cái được, nhưng cậu ấy ca ngợi “Làm chủ tập thể” của Lê Duẩn là sáng tạo (!). Lại còn tình hình nữa là thanh niên không có tự do dân chủ. Cho nên nếu nói tôi lãnh đạo Đoàn Thanh niên để chống lại Đảng Cộng sản cũng đúng, vì cương lĩnh của Đảng Cộng sản không có tương lai. Tôi không muốn để cho thanh niên đi theo con đường sai lầm.
Anh Trường Chinh nói: “Thế thì chú phải ra khỏi Trung ương.”
Tôi đáp: “Tôi sẵn sàng ra khỏi Trung ương và có thể chịu bỏ tù.”
Thế là tôi ra khỏi Trung ương.
Các cậu xem tình hình học sinh, thanh niên ngày nay rất thụ động, họ bị ru ngủ, bị đánh lừa. Việc tự cải tạo là cực khó, việc nổi dậy cũng rất khó (có vấn đề tư tưởng, thiếu lãnh tụ). Chưa có đủ điều kiện. Ngay như nông dân hiện nay đang rất ức vì bị mất ruộng đất, mất nguồn sống, họ có nổi dậy vì lợi ích trực tiếp, chưa nổi dậy về chính trị. Các cựu chiến binh ở nông thôn cũng cùng cảnh, nhưng họ bị mua.
Tình hình thực tế là học sinh, sinh viên đang trong cuộc sống cực khổ, họ phải đi tìm chỗ (giải quyết khó khăn cho gia đình và cho bản thân). Nhiều cuồng tín và sống giả. Cho nên tầng lớp thanh niên, sinh viên rất kém chủ động. Lại còn cái Đoàn Thanh niên rất có tội, hàng năm giới thiệu tới 10 vạn thanh niên cơ hội chủ nghĩa vào Đảng Cộng sản. Trong khi đó ở nước ngoài, học sinh, sinh viên là nòng cốt của quốc gia.
Giới trí thức có độc lập suy nghĩ, nhưng còn thiếu những người có tư duy chiến lược, đại bộ phận phải lo miếng ăn, lo bát cơm của họ.
Cái thiếu chung là thiếu ngọn cờ, thiếu trào lưu, thiếu phong trào, một khi có phong trào là đi theo phía tiến bộ, phía cách mạng.
Cậu Nguyễn Trần Bạt có nhiều tư duy tốt, song cậu ấy có cái sai lầm rất lớn là chủ trương không cách mạng. Cuộc cách mạng mới là thay đổi căn bản, thay đổi, cải tạo lại, đổi mới, cách mạng mới có chuyển biến triệt để. Đừng sợ nói đến cách mạng. Trước hết là phải cách mạng tư duy, nếu không nó cứ luẩn quẩn mãi trong vòng lạc hậu…
Cũng phải nói đến giới luật, luật gia. Họ là mhững người hiểu biết, cho nên những tiếng nói phản biện có nhiều từ giới luật gia.
Cù Huy Hà Vũ kiện Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chính là sự khởi động. Ở Thành phố Hồ Chí Minh sôi động lắm, không như Hà Nội. Chính giới luật gia có thể trở thành một động lực chính trị.
Còn doanh nhân của nước ta đang bắt tay với chính quyền, họ lo kiếm chác, làm giầu, chưa lo cho thời gian lâu dài sau này.
Bức tranh chung của Việt Nam là như vậy. Chưa thể có gì được từ trên căn bản.

II. Nói về mảng thứ hai của phát triển
Xem lại quá khứ:
Trước đây tôi có dịp được gần Bác Hồ, được hỏi Bác nhiều điều. Trong đó tôi đưa ra câu hỏi: “Thưa Bác, trong cả đời hoạt động của Bác, có cái gì thành công, có cái gì thất bại, cái gì băn khoăn?”
Bác khen câu hỏi của chú hay:
- Cái thành công của Bác là giải quyết vấn đề dân tộc – giải phóng dân tộc;
- Cái thất bại của Bác cũng là dân tộc, tức là Bác chưa tìm được con đường phát triển cho dân tộc. Điều này Bác chưa làm được, các chú, con cháu các chú phải làm, phải tìm ra được con đường phát triển cho dân tộc.
- Bác băn khoăn: Không được tả khuynh (Xô-viết Nghệ Tĩnh, Cải cách Ruộng đất).
Xem như vậy, tức là Bác Hồ chưa tìm ra con đường phát triển, chưa chỉ ra con đường phát triển. Thế mà cứ nói là đi theo con đường Bác Hồ đã chỉ thì thật là vô lý. Ngày xưa Bác chỉ ra con đường giải phóng dân tộc. Lúc đó ta nói: “Bác bảo đi là đi, Bác bảo thắng là thắng”; Có thể đúng như vậy. Nhưng bây giờ cứ nhai lại rằng đã đi theo con đường Bác đã chỉ thì thấy Bác đã chỉ đâu mà theo!
Trong giai đoạn phát triển, chúng ta cần có Nhà nước pháp quyền, phải có pháp trị. Dùng đức trị sẽ không còn quản được quốc gia. Chứ Bác là điển hình của việc không dùng pháp trị. Thời ông Phạm Văn Đồng có sai lầm là đi giải tán trường luật. Chúng ta đã không nhấn mạnh dân chủ và luật pháp.
Xem xét lại nhân dân ta thì thấy:
Ngày xưa là THẦN DÂN của phong kiến, sau là THẦN DÂN của tư bản, và bây giờ là THẦN DÂN của cộng sản. Là thần dân chứ chưa là công dân đích thực.
Bác tự nhận là có sự hạn chế, tiếp thu văn hóa phương Đông cũng chưa trọn vẹn (phương Đông – Trung Quốc có Khổng gia, Lão gia, Khổng giáo, Nho giáo…).
Về cái nguy cơ không dân chủ, thiếu luật như Nguyễn Mạnh Tường đã cảnh báo từ năm 1950.
Ta độc tài cộng sản. Sai lầm lớn nhất là ta dùng chuyên chính vô sản (thu cái độc tài cho một Đảng, một nhóm người trong Đảng nhân danh là cộng sản rồi cuối cùng là độc tài của một cá nhân). Như nhà nước Liên Xô cũ là nhà nước bành trướng chủ nghĩa nhân danh cộng sản bành trướng đại Đảng. Chỉ vô sản gây tai họa, hiểm họa. Cái ấu trĩ trước đây là thường hay có quan điểm nhận xét rằng phong trào tự do là đi từ tự phát lên tự giác. Không phải vậy. Stalin muốn vận động giai cấp để làm chủ thiên hạ. Nói đến độc tài, nếu Võ Nguyên Giáp cầm quyền nhất định cũng sẽ độc tài.
Cái ngày Nguyễn Chí Thanh vào Nam công tác, trước khi lên đường có nói lại với Hồ Chí Minh: Cảnh giác, có thể có đảo chính. Ai đảo chính? Đó chính là Võ Nguyên Giáp, và Giáp đã huy động một số cán bộ làm bộ sậu cho mình. Thật ra có hai người muốn làm đảo chính, đó là Võ Nguyên Giáp và Lê Đức Thọ. Cho nên Thọ mới đánh Giáp, kết quả có một hồi không cho Giáp sinh hoạt Bộ Chính trị (Tớ nói đây là có chứng cứ, hồ sơ lưu trong Văn phòng Trung ương Đảng, nghe được Nguyễn Chí Thanh nói là do hồi đó đang làm bí thư cho ông ta).
Độc tài của cộng sản ghê lắm. Thâu tóm quyền lực, lừa bịp nhân dân, biến người dân thành nô lệ. Vấn đề này ta cứ nhìn toàn cục và có cái nhìn xuyên thế kỉ rất rõ. Khi đã có quyền lực trong tay ắt dẫn đến độc tài. Trên thế giới, như Napoleon người ta giết hết đồng nghiệp. Ta cũng vậy, các vụ Chu Văn Tấn, Bằng Giang, Lê Quảng Ba… Người ta xuyên tạc lịch sử.

III. Có thông tin về vấn đề “Nam tình báo cục với Tổng cục 2”. Cái đó là giả hay thật?
Tôi không quan tâm thật giả, vấn đề là bài viết đó đã vạch trần toàn bộ âm mưu chiến lược đen tối của Trung Quốc đối với Việt Nam. Chúng nó đã, đang thực hiện và nhất định thực hiện các mưu đồ xâm lược Việt Nam. Trên thế giới chưa ai mưu sâu như Trung Quốc, chưa ai xảo trá, nham hiểm bằng Trung Quốc. Trung Quốc là xứ sở của ngụy biện và ngộ biện. Hiện nay Việt Nam chưa có nhân vật nào chọi được với Trung Quốc. Trước đây Văn Tiến Dũng cũng không nhìn đúng Trung Quốc, người Việt Nam còn rất ngây thơ. Ngày nay Trung Quốc giàu, mạnh, tham… là một hiểm họa.
Tai họa sẽ đến với Việt Nam, nếu những người lãnh đạo không nhìn rõ, không thấy được Trung Quốc là một đổi thủ nguy hiểm.
Việt Nam cần:
1. Tồn tại và phát triển
2. Phải có ý chí, phải có trí tuệ
3. Phải mạnh lên
4. Phải liên minh với các nước khác (như với Ấn, Nga, Nhật, thậm chí cả Mĩ).
Chúng ta phải có hẳn một chiến lược liên minh. Trung Quốc tham vô đáy, không khéo ta sẽ từng bước trở thành bộ phận Trung Quốc. Vì nói phải ngả về Trung Quốc để được yên là chủ nghĩa đầu hàng, chủ nghĩa thất bại. Ngả theo Trung Quốc thực chất là bán nước. Việt Nam phải có sức sống dân tộc, không chịu làm nô lệ, Việt Nam phải có trí tuệ. Chúng ta phải tìm đến sức mạnh thời đại. Nhưng ta biết kiềm chế, không để Trung Quốc có cớ thôn tính ta. Ông cha ta kiến võ chưa bao giờ có chủ trương ngả theo Trung Quốc. Chúng ta không khiêu khích kẻ lớn. Trung Quốc thù dai lắm, nên nhớ!
Đối phó với Trung Quốc:
1. Trên đất liền không sợ
2. Trên biển ta yếu tuyệt đối, Trung Quốc mạnh tuyệt đối.
Chúng ta cần có thời gian để tạo nên một hệ thống phòng thủ, có đủ sức phòng thủ và phản kích, dựa vào bờ, giữ đảo… Vì thế, nên phát triển nhiều hải đội có hỏa lực mạnh (tên lửa chuẩn xác tốc dộ cao, hiệu quả lớn, nó có khả năng gây thiệt hại lớn cho địch. Chú ý: tên lửa phải là nòng cốt. Kế hoạch tên lửa hóa có thể phải tốn đến 3000 – 4000 USD).
Việt Nam phải giữ sao cho được vài chục năm để đi lên. Phải giữ vững khối Bộ Chính trị-Quốc phòng-Chính phủ. Vai trò quần chúng nổi dậy giữ mình là rất quan trọng.

 
--------------------------------------------------------------------------------
* Ghi chú về hai nhân vật trò chuyện cùng ông Đặng Quốc Bảo:
1) Tạ Cao Sơn: Đại tá, Cựu chiến binh, [từng phụ trách Cục tác chiến, nguyên cán bộ Viện Lịch sử quân sự], 60 năm tuổi Đảng, Đảng viên Chi bộ 13, phường Liễu Giai, Ba Đình; nhà 1, ngõ 9, phố Liễu Giai. Cháu của nhân vật huyền thoại Tạ Đình Đề (gọi Tạ Đình Đề là chú ruột).
Ông là một trong những người ký tên vào “Tâm thư của các nhà cách mạng lão thành” ngày 28.6.2009 đăng trên Bauxit VN
2) Quách Hải Lượng: Đại tá hải quân, chuyên viên cao cấp Viện nghiên cứu Chiến lược Quân sự, nguyên tuỳ viên Quân sự Việt Nam tại Bắc Kinh, nguyên Trưởng ban Quốc tế Viện Chiến lược - Bộ Quốc phòng



Thứ Năm, 5 tháng 2, 2015

Xin đừng để cho người ta đổi trắng thay đen, đánh lừa quần chúng

TƯ LIỆU CHÍNH TRỊ
Đây là lá thư đề ngày 2-3-1995 của bà Nguyễn Thị Mỹ, quả phụ của thiếu tướng Đặng Kim Giang, một trong những nạn nhân chủ chốt của vụ đàn áp chính trị bắt đầu từ năm 1967, mà đến nay vẫn chưa được đưa ra ánh sáng. Lá thư đề gửi cho “các ông Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Quốc hội nước CHXHCNVN, Thủ tướng Chính phủ, Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng, Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao, Chánh án Tòa án tối cao và Hội luật gia Việt Nam.”
Thưa các ông,
Tôi là Nguyễn Thị Mỹ, 77 tuổi, giáo viên nghỉ hưu, tại phòng 20, nhà C2 Khu tập thể Nghĩa Tân, Từ Liêm, Hà Nội, xin khiếu oan với các ông việc sau đây:
Nếu ngày nay còn cái “trống kêu oan” (1) của xưa kia thì tôi cũng xin đội đơn này đến gióng ba hồi trống như bà Bùi Hữu Nghĩa (2) để “kêu oan” cho chồng tôi. Oan khuất này tồn tại đã gần 30 năm nay nhưng vẫn chưa được ai khui ra và giải oan cho gia đình tôi cùng với nhiều gia đình khác.
Tôi suy nghĩ rất nhiều, rất lung đã nên cầm bút nữa để tiếp tục kêu oan chưa vì từ trước đến nay đã bao giấy mực, bao nước mắt, bao chặng đường để lại, bao tủi nhục hứng chịu mà chỉ chuốc thêm tai vạ cho mình và cho gia đình, chẳng giải quyết được vấn đề gì.
Nhưng đúng ngày hôm nay tôi vừa tròn 77 tuổi, cái tuổi chỉ còn tính ngày tính tháng, cái tuổi nếu có của để lại thì phải viết di chúc. Tôi không có của để lại cho con cháu nhưng tôi có “nỗi oan” của chồng cần phải được giải quyết trước khi nhắm mắt. Vì vậy tôi viết bức thư này.
Tôi nghĩ rằng đây là vấn đề lớn nhất từ trước đến nay xảy ra trong đảng ta mà chưa được làm sáng tỏ.
Thưa các ông, câu chuyện như sau:
Nỗi chồng
Năm 1967, đêm 18-10, lúc 21 giờ, chồng tôi là Đặng Kim Giang, hoạt động cách mạng từ năm 1928, cấp thiếu tướng, thứ trưởng Bộ Nông trường, bí thư đảng đoàn bộ, lúc đó đang nghỉ ốm tại xã Việt Đoàn, huyện Tiên Sơn, Hà Bắc, đã bị công an vũ trang cùng ba chiếc xe jeep ập vào còng tay đưa đi giữa khi nằm ôm đứa con gái út 5 tuổi ngủ. Sau đó họ khám nhà tôi 3 tiếng đồng hồ, đem đi các tài liệu về Điện Biên Phủ, các ảnh chụp với các lãnh tụ, 1 đài bán dẫn do chuyên gia Liên Xô tặng và 1 súng lục (không có đạn) do tướng Makonovski tặng khi chồng tôi đi với phái đoàn quân sự Việt Nam sang thăm Liên Xô năm 1960.
Sau đó tôi được biết là họ buộc cho anh ấy tội “chống đảng, liên hệ với xét lại Liên Xô và âm mưu lật đổ chính phủ”.
Họ bắt giam chồng tôi vào xà lim 2 tháng tại Hỏa lò Hà Nội, cùm chân tay, không có đèn đóm. Sau đó họ đưa lên giam ở Bất Bạt rồi Tân Lập (Yên Bái).
Từ tháng 10-1967 đến 26-10-1973 (sau Hiệp định Paris), trong sáu năm trời họ đưa từ nhà lao này sang nhà lao khác, giam một mình trong một căn nhà trên đỉnh đồi vắng vẻ, canh gác cẩn mật, giữa lùm cây có rào vây kín, không tiếp xúc với sinh vật nào ngoài một anh công an tới bữa đem cạp lồng cơm ngoắc vào cửa. Suốt ngày đêm trong sáu năm trời không chuyện trò trao đổi với một người nào. Đã có lúc buồn quá chồng tôi ngồi nói chuyện với đàn kiến hoặc nói chuyện một mình.
Trong suốt thời gian đó không hề thiết lập tòa án để xét xử, điều mà chồng tôi và gia đình trước sau tha thiết đề nghị. Chồng tôi đề nghị được đem ra xét xử công khai hoặc bí mật nhưng phải có phiên tòa cho bị cáo được quyền tự bảo vệ – có hỏi cung, có luận án, có văn bản về tội, đúng pháp luật và Hiến pháp. Hoặc nếu xét xử nội bộ thì cũng phải đúng Điều lệ đảng. Nhưng không hề có một cuộc xét xử nào như vậy. Chỉ có gặp ông Lê Đức Thọ, Trần Quốc Hoàn, Song Hào một lần. Các ông ấy trấn áp, chồng tôi cãi lại thì bị trù, không hề có văn bản gì cả. Cứ như thế giam cầm, cấm cố suốt 6 năm trời. Có một lần chồng tôi ốm nặng (huyết áp cao, suy tim) phải đưa ra bệnh viện Sơn Tây, cũng bị bắt nằm riêng một khu vực, có công an kèm; đổi tên thành Đặng Văn Nông, không được tiếp xúc với bệnh nhân khác. Bác sĩ chữa bệnh cũng không được biết đang chữa bệnh cho ai.
Chồng tôi già và ốm. Suốt 6 năm bị giam cầm, mùa đông không có nước nóng tắm, cứ phải hàng tháng mới tắm một lần, ghẻ lở rất khổ sở. Đi tiêu thì đào hố quanh chỗ ở mà chôn phân. Rửa ráy thì có giếng đất trước nhà. May mà không rơi xuống đó (nếu có rơi cũng chẳng ai biết mà vớt lên). Ốm đau thật là khốn khổ, nhất là ban đêm, mưa gió. Theo tôi biết, theo luật quốc tế thì lối giam cầm như thế là tối dã man.
Trong suốt 6 năm trời đó, mỗi năm tôi được dịp đi thăm hai lần (vào dịp Tết ta và Quốc khánh). Phải xin phép trước rất lâu. Mỗi lần thăm 20 phút. Quà bánh mang vào bị lục soát kỹ (có lần tôi mang mấy quả bưởi của (cây bưởi) chính tay chúng tôi trồng nhưng công an không cho đưa vào). Khi nói chuyện có công an giám sát.
Sau thì cho thăm đêm. Khi đến phải đợi mặt trời lặn hẳn, khi ra về trời còn sáng, không được để ai trông thấy mình, không dược nói mình đi thăm ai. Suốt 6 năm trời lẽo đẽo lội suối băng ngàn thăm chồng tù tội, nước mắt hòa với nước mưa.
Có cái gì ám mưội trong vụ bắt bớ giam cầm này mà phải xử sự như vậy?
Ôi những năm tháng ấy tôi làm sao quên được?
Lúc đi thăm chồng ở Hỏa lò, nơi đế quốc Pháp đã giam cầm chồng tôi khi anh ấy chống lại chúng. Nay anh ấy lại bị chính đồng chí mình – chỉ vì bất đồng quan điểm – giam cầm ở chính chỗ năm xưa. Lịch sử lặp lại một cách tàn nhẫn như vậy! Biết bao chiều tà, mặt trời đã tắt, một mình tôi ngồi đợi trong túp lều tranh vắng vẻ đến rùng rợn ở bìa rừng dưới gốc đa um tùm có treo một cái kẻng. Tôi cầm dùi gõ ba tiếng và lắng nghe âm thanh vang động khủng khiếp khắp núi đồi lúc hoàng hôn… Tôi phải chờ cho đến lúc bóng tối bao phủ khắp núi rừng mới có người ra đưa vào thăm ông già tù tội tội nghiệp là chồng tôi. Tôi làm sao quên được những lần lặn lội trong mưa rét, trong đêm tối trên đường độc đạo từ bến đò Ấm Thượng (Đò Lao) đến Lao 3 trong rừng, nơi giam cầm chồng tôi. Hai bên đường rừng nứa hun hút, mưa đêm xối xả, đường rừng vắng, vừa lầy lội vừa trơn như mỡ, một mình tôi thân cò lặn lội gánh các thứ đi thăm chồng.
Có một bận đến bên một con suối nước lũ rất to chỉ có một thanh gỗ bắc ngang vừa hẹp vừa dài. Lúc đó đã nhá nhem tốt, trời tháng chạp, mưa tuôn như trút. Tôi ngã chết ngất bên đường. Khi tỉnh dậy tự nhủ: “Ta phải dậy mà đi. Không được nằm đây. Ta chết, ai nuôi lũ con ta?”. Vậy là lại đủ sức đứng dậy nhưng xe đạp đầy bùn không đẩy đi được, lại thồ nặng (6 bị thức ăn tiếp tế cho chồng). Làm sao qua được suối?
Thế là đành ngồi khóc bên đường. May sao có một người đàn ông Mán đi đào sắn về đã giúp tôi qua chiếc cầu khỉ sang bờ bên kia để tiếp tục đi tới 10 giờ đêm mới tới nơi chồng bị giam giữ.
Những nỗi cực nhục ấy, ai thấu cho chúng tôi, những người vợ của những nạn nhân trong “vụ án xét lại” này?
Sau Hiệp định Paris, chồng tôi được tha về nhưng vẫn phải cấm cố thêm 7 năm nữa (quản thúc tại xã Việt Đoàn, Tiên Sơn, Hà Bắc). Khi về cũng chỉ được nghe nói miệng cho biết là bị cách hết chức vụ, khai trừ ra khỏi đảng, tước hết quyền công dân. Hàng tháng phải đến trình diện tại công an huyện, không được ra khỏi xã, không được tự do đi lại, không được bầu cử. Mỗi tháng trợ cấp “nhân đạo” cho một số tiền tối thiểu, tháng có tháng không. Ốm đau không tiêu chuẩn thuốc men gì cả. Có một lần chồng tôi bị huyết áp cao, ngất xỉu, tôi dìu chồng tôi ra chân dốc làng Long Khám xin nhờ xe Bộ Y tế về Hà Nội cấp cứu nhưng cán bộ Bộ Y tế sơ tán sợ liên lụy, không dám.
Tôi phải nhờ người đèo xe đạp 4km ra ga Lim đưa lên xe khách vào cấp cứu ở bệnh viện Việt-Xô. Qua một đêm ở phòng cấp cứu, sớm hôm sau bị đuổi ra (theo lệnh của ông Lê Đức Thọ) vì không có “tiêu chuẩn” mặc dù huyết áp còn cao, người lảo đảo đi không vững!
Còn địa phương, được lệnh của “trên” đã cho họp toàn thể đảng viên trong huyện thông báo: “Đặng Kim Giang là phần tử chống đảng. không ai được tiếp xúc với gia đình phần tử xét lại nguy hiểm này” !!!
Từ đó, từ một gia đình có công với cách mạng, có uy tín với địa phương, nơi chồng tôi hoạt động thời bí mật, gia đình tôi sống trơ trọi như giữa một hoang đảo trước sự né tránh của mọi người.
Tôi đã có đến ông Lê Đức Thọ và ông Trần Quốc Hoàn. Ông Trần Quốc Hoàn tránh không tiếp. Tôi nói với ông Lê Đức Thọ:
“Anh Giang phạm tội gì mà các anh còng tay còng chân mang đi? Sao đối xử với nhau tệ thế? Có phải gián điệp của đế quốc không? Nếu phải, đem xử bắn. Mẹ con tôi tán thành”.
Ông Thọ nói:
“Không phải. Đây là cuộc đấu tranh nội bộ, không đem ra xử công khai được. Chị cứ yên tâm. Chúng tôi không bỏ tù nhau đâu. Thuyết phục nó không được, phải dùng biện pháp hành chính. Khi nào nó nghe ra sẽ về thôi. Cửa nhà tôi lúc nào cũng rộng mở. Chị có khó khăn gì cứ đến.”
Thật ra cánh cửa đó đã vĩnh viễn sập lại sau lưng tôi kể từ ngày đó.
Chiến tranh kết thúc đã lâu. Mọi người đã trở về Hà Nội. Năm 1980. chúng tôi cũng trở về Hà Nội (nhà cũ 29 Cao Bá Quát đã bị quân đội lấy mất). Chúng tôi phải vay mượn mua tạm một túp nhà tranh vách đất rách nát 14 mét vuông ở 30 ngõ Chùa Liên Phái (một xóm nghèo nhất Hà Nội, những người ở đó phần lớn không có hộ khẩu, là những người bán thuốc chuột và trẻ con móc túi trên tàu điện). Mười người, vợ chồng, con cái, cháu nội, cháu ngoại sống chen chúc hơn 10 năm trời trong ngôi nhà đổ nát đó.
Gần Đại hội 5, chồng tôi đang bị nhồi máu cơ tim, viết một lá đơn khiếu oan, trình bày khúc chiết vấn đề này, đề nghị Đại hội cử một tiểu ban kiểm tra lại và có kết luận rõ ràng vì đây là một vụ án lớn nhất từ trước đến nay có liên quan đến nhiều người: có ủy viên Bộ chính trị, có ủy viên Trung ương, có bộ thứ trưởng, có tướng tá và cán bộ cao cấp…
Lá đơn đó được gửi đến cho các ủy viên Trung ương Đảng, cho Đại hội 5, cho Ban bí thư, cho Tổng bí thư v.v…
Sau đó, tháng 9-1982, chồng tôi lại bị bắt trở lại, “về tội tán phát đơn khiếu nại làm mất uy tín của đảng”.
Lần này chồng tôi bị đưa đi giam cầm tại Nam Định 8 tháng.
Hôm bị bắt cũng bất ngờ. Công an đến mời lên gặp ban lãnh đạo Sở công an Hà Nội rồi đưa lên xe mang đi luôn, giam giữ bí mật ở Nam Định. Nhà cửa lại bị lục soát. Lần này các huân chương, huy chương (đến cả huy hiệu Điện Biên Phủ), quân hàm đều bị tịch thu. Lấy luôn cả máy chữ Olympia con trai tôi vừa mua ở Sài Gòn mang ra để làm việc.
Suốt 8 tháng ấy, anh Đặng Kim Giang bị ốm nặng (đã từng nhồi máu cơ tim) nên thường phải nằm riêng một mình ở bệnh viện công an Nam Định. Suốt thời gian đó không có một cuộc hỏi cung, xét xử gì cả…
Mỗi tháng tôi được đi thăm một lần, tàu xe rất cơ cực. Cũng như lần trước, quà cáp bị khám xét. Ngồi nói chuyện khoảng một giờ đều có công an giám sát.
Có đêm lỡ tàu xe, tôi phải ngồi thâu đêm rét mướt ở bến xe đợi sáng.
Sau vì chồng tôi yếu quá và vì tôi viết đơn cho ông Phạm Hùng nói “anh Giang sắp chết rồi vì bị nhồi máu cơ tim ông (tuổi đã 73). Nếu các anh không thả anh ấy ra, anh ấy mà chết trong tù thì sau các anh sẽ mang tiếng là giam cầm nhau cho đến chết, không khác gì bọn Mao ở Trung Quốc”, nên sau 8 tháng giam (không xét xử) họ đưa chồng tôi trả về cho tôi. Cũng như lần trước, không có bản án!
Hôm trả về, chồng tôi nằm suốt trên xe thế nhưng họ vẫn chưa cho về nhà mà còn bắt phải đến đồn công an Cầu Dền để nghe đọc các điều kiện quản chế và ký vào bản cam kết. Nhưng chồng tôi mệt quá, tôi phải ký thay vào các bản đó.
Lại quản thúc không thời hạn. Hàng tháng phải ra trình diện với đồn công an Cầu Dền. Sau hai tháng, phải ra báo cáo trước nhân dân xem “đã cải tạo tốt” chưa. Nhưng từ ngày trở về chồng tôi ốm liệt giường nên cũng không có sức mà lết ra báo cáo được lần nào cả.
Trước khi bị bắt còn tráng kiện, khi trả về là một ông lão tàn phế, đờ đẫn, suy sụp hoàn toàn.
Phần vì nhiều năm tù tội quá – cả cuộc đời 73 tuổi mà 12 năm tù đế quốc, 7 năm tù ta, kể cả cấm cố và quản thúc tất cả 3 lần tù là 25 năm – phần vì bị chà đạp nhiều, phần vì cuối đời sống trong túng thiếu, cực khổ, thuốc men không có, bị truy bức hành hạ liên tục nên sau một đêm mưa gió, bị dột ướt người cảm lạnh rồi nhồi máu cơ tim, anh Đặng Kim Giang đã chết. Chết chính trong túp nhà lá dột nát đổ nước vào người anh đó!
Từ khi được thả về, ốm liệt nhưng không có tiêu chuẩn điều trị, thuốc men, ăn uống thiếu thốn, tiền nong chẳng có, nếu như được chữa chạy chắc chắn anh Đặng Kim Giang chưa chết. Lúc hấp hối vẫn có 2 công an ngồi kèm. Tôi phải bảo họ ra ngoài anh mới nhắm được mắt.
Ngày 16-5-1983, tôi có đánh 3 bức điện: một cho ông Lê Đức Thọ (Ban tổ chức Trung ương), một cho ông Nguyễn Ngọc Trìu (Bộ Nông nghiệp), một cho ông Chu Huy Mân (quân đội) báo tin chồng tôi chết. Nhưng không có ai đả động gì. Không một nén hương, không một bông hoa, không một đồng xu cho đồng chí xấu số!!! Tôi đã bán quần áo và quyên góp trong số bạn bè tù cũ Sơn La để chôn cất.
Bao nhiêu công lao đóng góp cho dân cho nước mà khi chết đi xác được liệm trong một cỗ quan tài ghép 11 mảnh. Con tôi phải giã gạch và cơm nếp để bít những khe hở. Chôn anh ở nghĩa trang Văn Điển một ngày mưa, hố đầy nước, nhầy nhụa những mảnh quần áo của người vừa được cải táng sót lại!!!
Một tuần sau, Ban tổ chức Trung ương cho người cầm đến 80 đồng đưa cho tôi nhưng tôi không lấy vì việc chôn cất Đặng Kim Giang đã xong rồi.
Thực chất đây là một vụ bất đồng quan điểm.
Tôi được biết ở Bộ Nông trường trước đó, các đề nghị xây dựng của anh Đặng Kim Giang như: khuyến khích vật chất, chia ruộng phần trăm cho nông dân, hợp tác với các nước trong khối SEV, đầu tư liên doanh cho các nông trường (những việc hiện nay đã làm) đều bị coi là “chủ trương xét lại”, những ai ủng hộ đều bị hành hạ, loại bỏ .
Từ bắt bớ đến giam cầm, thả ra và đối xử đều tùy tiện, bất chấp điều lệ đảng, pháp luật và hiến pháp. Suốt 16 năm: 2 lần bắt giam, đưa hết nhà giam này đến nhà giam khác, quản thúc, cấm cố, chịu đựng đủ loại hình phạt: khai trừ, cách chức, khám nhà, tịch thu đồ đạc, giam cầm, truy bức, phân biệt đối xử với gia đình, không hề theo một thể chế nào, đạo luật nào. Không có một văn bản chính thức nào về tất cả vấn đề trên được công bố. Không được xét xử, không được bào chữa, không được chống án, không được khiếu nại. Nơi giam giữ phải giữ bí mật, tên họ phải thay đổi.
Tại sao lại như vậy? Có cái gì ám muội? Có cái gì uẩn khúc trong vụ án này?
Đã nhiều lần anh Giang đã làm đơn gửi các cơ quan của Đảng – có lần trực tiếp tố cáo tại trụ sở Ban tổ chức Trung ương Đảng, tại Bộ công an – về những sai lầm, khuyết điểm của các cán bộ có chức quyền trong đảng và những hành động phạm pháp, sai điều lệ của họ nhằm bưng bít sự thật, trả thù người dám đấu tranh (các tài liệu này chắc chắn còn được lưu trữ).
Oan khuất đã nhiều, anh Đặng Kim Giang, người dám đấu tranh dũng cảm cho chân lý, đã bị đối xử tàn tệ cho đến lúc chết.
Tôi đề nghị các ông cho mở một cuộc điều tra nghiên cứu về vụ án này và kết luận công khai, rõ ràng ai có công, ai có tội, tội gì – cũng như khi bắt giam đã phổ biến đến từng chi bộ, làm mất thanh danh, thì nay hãy minh oan cho các anh ấy đến từng chi bộ.
Hãy trả lại thanh danh cho những con người dám đấu tranh cho lẽ phải, nhất là những người đã khuất. Hãy trả lại thanh danh và sự đối xử công bằng với con cháu họ.
Tại sao lại xóa sạch công lao của họ? Trong lịch sử đấu tranh của xã Minh Tân, của huyện Kiến Xương, của tỉnh Thái Bình, của xã Trung Màu, của Hà Bắc, của tỉnh Hà Đông, tại sao lại xóa sạch công lao của Đặng Kim Giang?
Tại sao trong chiến thắng vinh quang của Điện Biên Phủ lại xóa sạch công lao của người đã từng lo từng hạt cơm viên đạn để làm nên chiến thắng rung chuyển hoàn cầu đó? Ai cho phép người ta bóp méo lịch sử, cướp công của những người đã từng đổ mồ hôi và xương máu để xây dựng đất nước này, chính quyền này, chế độ này, lịch sử này?
Tôi đề nghị thành lập một tiểu ban điều tra xem xét lại toàn bộ vụ án này và có kết luận cụ thể, rõ ràng, minh bạch, công khai, xác định rõ công tội và có cách đối xử thỏa đáng đối với những người còn sống cũng như những người đã chết cùng vợ con họ.
Nỗi con
Chúng tôi có 7 con. Sau khi cha bị buộc tội thì mỗi đứa con một thảm kịch. Đây là một cuộc “tru di tam tộc”. Tôi xin dẫn chứng ra một số trường hợp cụ thể:
1) Cháu Đặng Kim Phương, tốt nghiệp phổ thông, xưng phong vào bộ đội 3 năm, công tác tại quân y, tận tụy lao động chân tay trong bệnh viện dã chiến, liên tục là chiến sĩ thi đua, là cảm tình đảng nhưng không được kết nạp, không được vào đại học (hồi đó không phải thi) vì “lý lịch xấu”.
2) Đặng Kim Thư, tốt nghiệp đại học cơ khí chính xác tại Kiev (Liên Xô) vào loại giỏi. Về nước được ông Lê Tâm giám đốc xin vào Viện đo lường nhưng “trên” không cho và bắt lên gánh vôi vữa hai năm oơ Nhà máy y cụ 2 (Gò Đầm, Thái Nguyên) trong khi Viện đo lường Hà Nội rất cần kỹ sư cơ khí chính xác.
3) Đặng Kim Sơn, thi khối C vào Trường ngoại ngữ được 13,5 điểm (trường lấy 12,5 điểm). Thừa điểm nhưng không được gọi vì “lý lịch xấu”. Tôi xin anh Đinh Đức Thiện (3) cho cháu làm công nhân nhưng anh Thiện không nhận. Cháu phải ở nhà một năm. Sau tôi viết đơn khiếu nại gửi anh Lê Văn Lương (lúc đó là bí thư Thành ủy Hà Nội) và anh Tạ Quang Bửu (lúc đó là bộ trưởng Bộ đại học), cháu được gọi đi học, nhưng lại vào Đại học Nông nghiệp (trái với khả năng của cháu). Hôm cắt hộ khẩu cho cháu đi học, Khu đội Ba Đình bảo tôi cháu đến tuổi phải đi nghĩa vụ quân sự. Tôi nói: chồng tôi là bộ đội, tôi cũng là bộ đội, tôi sẵn sàng cho cháu đi nghĩa vụ quân sự và xin giao nó cho các anh kể từ giờ phút này. Nhưng họ lại không nhận. Con tôi chảy nước mắt bảo tôi: “Mẹ ơi, con cắn tay lấy máu viết đơn tình nguyện nhé?”. Nhưng tôi nghĩ người ta không tin mình nên không cho đi và đã khuyên con thôi, cứ đi học.
4) Đặng Kim Thành, học giỏi, thi khối A đỗ 23,5 điểm. Đáng lẽ được đi nước ngoài nhưng là con Đặng Kim Giang nên không được đi. Trong đơn xin vào Bách khoa (năm đó lấy 15,5 điểm) và tuy cháu thừa điểm nhưng không được vào mà phải vào Đại học xây dựng.
Ông Thành (4) (vụ trưởng Bảo vệ Đảng) thông báo cho tôi chỉ thị của ông Lê Đức Thọ: các con tôi không được vào các trường Bách khoa, Tổng hợp, Sư phạm, Y Dược, Pháp lý…; không được kết nạp Đảng, không được đi nước ngoài, không được đề bạt lên cương vị lãnh đạo.
Chúng nó luôn luôn bị phân biệt đối xử ở trường cũng như khi ở cơ quan.
Tôi nhớ năm 1969, trường Nguyễn Văn Trỗi sơ tán sang Trung Quốc trở về nước và giải tán. Có chỉ thị của trên: các cháu từ trường Nguyễn Văn Trỗi về địa phương nào thì trường phổ thông ở đó có trách nhiệm đón tiếp các cháu. Vậy mà hai thằng con trai tôi, Đặng Kim Sơn và Đặng Kim Thành, lớp 8 và lớp 9, khi trở về xin vào trường cấp 3 Tiên Du đã bị Ty giáo dục Hà Bắc từ chối. Sau tôi phải về Hà Nội giữa lúc máy bay Mỹ đang oanh tạc dữ dội đường số 1 để đến Bộ giáo dục, xin cho hai con tôi được vào trường cấp 3 Tiên Du.
Đã hết đâu: Còn bị bắt bớ và hăm dọa nữa!
Năm 1982, sau khi chồng tôi bị bắt trở lại, phòng Công an Tiên Du đến nhà máy quy chế Từ Sơn bắt con gái tôi là Đặng Kim Thư và chồng nó là Phạm Viết Sỹ (đều là kỹ sư) giam một tuần ở phòng Công an huyện Tiên Sơn, bức chúng phải viết đơn tố cáo bố. Tôi đã phải làm đơn lên Bộ Công an, Hội luật gia Việt Nam, Quốc hội để họ thả con tôi ra.
Ôi! Nghĩ mà cơ cực những năm đen tối ấy. Nỗi oan chỉ một kêu trời nhưng xa!
Và từ ấy đến nay đã gần 30 năm. Thời gian cứ trôi đi. Bao nhiêu nhiệt tình, tài năng của con cái tôi cũng mai một đi. Vì phấn đấu làm sao một khi dấu ấn đã in trên trán. Chưa ai gột rửa đi cho, cứu giúp lũ con tôi cho chúng nó được sống, được làm người như những người khác!
Tuy nhiên, thật là phúc đức cho gia đình tôi! Tất cả con tôi 7 đứa thì 3 đứa là cán bộ trung cấp, 1 đứa phó tiến sĩ, 5 đứa kỹ sư, 4 đứa là đảng viên.
Về việc các con tôi. Tôi đề nghị các ông can thiệp để xóa cái dấu ấn và bản án cha không làm mà con phải chịu cho chúng được đem tài năng ra phục vụ nhân dân, đất nước. Hãy cho chúng được phát huy tài năng. Hãy đền bù cho chúng những năm tháng bị phân biệt đối xử sao cho thỏa đáng. Kể từ bây giờ cởi trói cho chúng là quá muộn (Trong 7 đứa, đã 3 đứa nghỉ hưu. Thật tội nghiệp chúng: chờ cho hết kiếp còn gì là xuân!). Tôi sẽ vui lòng nhắm mắt nếu được trông thấy các con tôi đã được cứu rỗi linh hồn và thể xác.
Nỗi mình
Là một cán bộ giáo dục lâu năm (35 năm trong nghề) và là một đảng viên, tôi luôn luôn làm tốt công việc được giao phó. Không có khuyết điểm sai sót gì trong công việc cũng như trong đạo đức tác phong. Vậy mà sau khi chồng tôi bị kỷ luật, ba lần huyện Tiên Sơn (Hà Bắc) gọi lên vận động ra đảng. Nhưng tôi không chịu vì lẽ tôi không có khuyết điểm. Vả lại đảng bộ địa phương bảo vệ tôi vì tôi liên tục là lao động tiên tiến và đảng viên 4 tốt.
Năm 1980, tôi cùng gia đình chuyển về Hà Nội. Sau khi chồng tôi bị bắt trở lại, một hôm bí thư chi bộ là đồng chí Địch (thứ trưởng Bộ giao thông đã nghỉ hưu) và đồng chí Đoàn, phó bí thư (nữ bác sĩ nghỉ hưu) gọi tôi đến và báo cho biết là trên có chỉ thị cho là phải vận động tôi ra đảng. Lúc đầu tôi nhất định không nghe và tuyên bố: Tôi chỉ vào đảng chứ không ra đảng. Tôi không có khuyết điểm gì cả và rất xứng đáng đứng dưới cờ đảng. Tôi mới nhận thẻ đảng (100% đồng chí nhất trí trao thẻ cho tôi). Nhưng sau các đồng chí nói hoài nói mãi và nói thêm:
“Nói thật chị ở chi bộ chúng tôi thì thật khổ cho chúng tôi. Mọi người đều biết chị là một đảng viên tốt, không có sai sót gì nhưng chị là vợ anh Đặng Kim Giang. Trên cứ nhắc đi nhắc lại là nhất định phải đưa chị ra khỏi đảng”.
Tôi nói:
“Nếu thấy vướng mắc thì cứ khai trừ tôi đi”.
Các chị nói:
“Không khai trừ vì chị không có khuyết điểm gì. Chỉ vận động chị vì lợi ích của đảng (?) chị nên tình nguyện ra khỏi đảng”.
Sau nhiều lần các đồng chí đó vận động, tôi suy nghĩ thấy buồn quá. Xã hội tiêu cực như vậy! Thế thái nhân tình như thế! Công lý ở đâu? Thôi thì rút lui để yên thân khỏi phải nghe lời nọ tiếng kia thêm cực, thêm khổ. Và thế là tôi đề nghị triệu tập một cuộc họp chi bộ toàn thể 36 đảng viên và tôi trả lại thẻ đảng. Hôm đó, trước tất cả 36 đồng chí đều là cán bộ nghỉ hưu, tôi đã nói hết nỗi lòng mình và oan khuất của gia đình mình.
Nhiều đồng chí đã rưng rưng nước mắt. Hôm sau tôi gặp đồng chí Đang, một đảng viên già (nay đã chết). Đồng chí nắm tay tôi ứa nước mắt: “Tôi hoạt động cách mạng từ lâu. Đảng dạy tôi phải bênh vực lẽ phải thế mà tôi để chị ra đảng, tôi thật xấu hổ! Sau khi chị về tôi hỏi đồng chí bí thư chi bộ: “Chị Mỹ ra khỏi đảng, anh có thấy xấu hổ không?” đồng chí Địch trả lời: “Biết làm thế nào được!”
Về sự nghiệp
Tôi là một giáo viên từ thời Pháp thuộc. Đi theo Cách mạng tháng 8, đã tham gia cướp chính quyền ở Đà Lạt. Ở trong Ban chấp hành Phụ nữ cứu quốc Đà Lạt. Vận động trí thức Đà Lạt và tham gia nhận ấn tín của Tổng đốc Trần Văn Lý. Sau về Hà Đông vừa dạy học từ 1945 vừa tham gia vận động phụ nữ (Hội phó Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Hà Đông).
Suốt từ Cách mạng tháng 8 cho đến khi về hưu năm 1972, đều luôn luôn làm tốt các công việc được giao phó. Tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, biết thành thạo hai ngoại ngữ Pháp và Lào, khi đi học văn hóa hay chính trị đều là học viên xuất sắc. Đã từng viết báo địch vận bằng tiếng Pháp (báo L’Etincelle) được Bác Hồ khen. Dạy học thì liên tục từ 1945 đến 1972 đều là lao động tiên tiến, phụ nữ 3 đảm đang và đảng viên 4 tốt. Vậy mà khi đi theo cách mạng là giáo viên, bây giờ cũng chỉ là giáo viên thường. Được đề bạt hiệu phó trường Nguyễn Trãi một ngày. Sáng nhận bàn giao. Chiều lại có quyết định trở về trường cũ dạy học. Hỏi tại sao thì Phòng giáo dục Ba Đình trả lời: “Chị là đảng viên, đặt đâu ngồi đó đừng có hỏi”.
Năm 1967, anh Lê Liêm có triệu tập cuộc họp 24 nữ cán bộ “bị bỏ quên”. Khi tôi trình bày quá trình công tác, các anh chị em đều khóc và đề nghị “đề bạt vượt cấp”. Được biết sau đó Bộ giáo dục định cử tôi làm hiệu trưởng trường con em cán bộ Lào. Nhưng chỉ thị của Ban tổ chức Trung ương là phải hủy quyết định đó. Thế là “cội đa, tôi lại trở về cội đa”.
Bao nhiêu khả năng, bao nhiêu nhiệt tình đều bị thui chột hết. Năm 1972, tôi nghĩ hưu, không được tăng một bậc lương nào (mặc dù tôi nằm ở mức lương 68 đồng trong 11 năm, mặc dù trong 11 năm đó tôi liên tục là lao động tiên tiến và đảng viên 4 tốt). Tôi được xếp hưởng 75% mức lương 78 đồng, nay là mức 310 đồng (mỗi tháng hiện nay tôi lĩnh 198.000 đồng – cả thâm niên giáo dục). Khi nghỉ hưu, tôi được lĩnh một tháng lương. Đang giảng dạy trên lớp thì nhận quyết định nghỉ hưu. Thế là cô từ biệt các em, hôm sau cô không lên lớp nữa!
Phục vụ như thế, khả năng như thế, cống hiến như thế và bị đối xử như thế nhưng tôi chẳng oán trách ai. Tôi chỉ có một tội là vợ của Đặng Kim Giang! Hiện nay tôi đã 77 tuổi. Mặc dù chìm nổi và thiệt thòi như vậy nhưng tôi vẫn tích cực tham gia phong trào phụ nữ địa phương cùng mọi phong trào khác và được chị em yêu mến, tín nhiệm. Đó là niềm an ủi của tôi.
Với số lương như vậy, nếu không có các con tôi đùm bọc thì chắc tôi đã chết từ lâu rồi.
Kết luận
Trên đây tôi đã trình bày đại thể những oan khuất và cơ cực mà gia đình cũng như chồng tôi đã phải chịu đựng trong suốt 30 năm qua trong “vụ án Đặng Kim Giang & Hoàng Minh Chính”. Đó chỉ là những nét lớn. Còn bao nỗi đắng cay, chà đạp. dày vò chúng tôi cắn răng chịu đựng khiến lắm lúc tôi tự hỏi: “Chẳng lẽ chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là thế này ư?” Tôi cứ nghĩ: “Có độc lập, tự do là có tất cả” và tôi tự tay tháo hết đồ nữ trang khai mạc Tuần lễ vàng 1945 ở Đà Lạt, đi theo cách mạng như một ngày hội lớn. Thế mà bây giờ cuộc đời tôi ra sao? Cơ cực vật chất không nói làm gì. Cái đau nhất là mất niềm tin.
Thưa các ông, các ông hãy làm sáng tỏ vấn đề này ra và hãy “cứu rỗi” linh hồn chúng tôi, những người bị bao oan trái trong vụ án uẩn khúc này. Xin các ông hãy cho thẩm tra lại vụ án mà may thay một phần nhân chứng còn sống. Các ông sẽ gặp nhiều khó khăn vì sẽ đụng chạm đến nhiều người đang muốn quay lưng lại những trang sử đen tối, coi như đã giải quyết rồi, không quay lại nữa.
Xin đừng để cho người ta bóp méo lịch sử, bôi nhọ những người ngay thẳng có công với cách mạng, đổi trắng thay đen, đánh lừa quần chúng, để giải thoát cho những người còn sống, để minh oan cho những người đã khuất.
Tôi đề nghị thành lập một tiểu ban thẩm tra lại vụ án. Xin hỏi han những nhân chứng còn sống rồi kết luận rõ ràng về vụ này: ai có tội, ai bị oan. Hãy thanh minh cho những người bị oan khuất và những người đã khuất. Hãy trả lại thanh danh cho họ và gia đình họ; hãy lên án những kẻ đã lạm Đảng chức quyền để áp bức, vu khống đồng chí mình, gây bao thảm họa và làm mất uy tín của đảng.
Mỗi lần gia đình tôi khiếu oan là một lần bị đe dọa, trù dập. Nhưng lần này tôi lại tiếp tục tố cáo không chỉ vì tin ở xu thế chân lý mà còn vì ý thức trách nhiệm đối với sự nghiệp chung, với vận mệnh cuộc cách mạng của chúng ta.
Kính chúc các ông mạnh khỏe.
Kính đơn,
Nguyễn Thị Mỹ (đã ký)
Phòng 201. Nhà C2
Khu tập thể Nghĩa Tân, Từ Liêm, Hà Nội