Thứ Hai, 18 tháng 9, 2017

Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh gặp Uỷ viên Bộ Chính trị Phan Diễn về vụ T4

Thư của Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh

Ngày 15 tháng 7 năm 2004
Kính gửi: Ban chấp hành trung ương,
Đồng chí Tổng bí thư và các ủy viên Bộ chính trị, Uỷ viên Ban bí thư, Uỷ ban kiểm tra trung ương, Ban nội chính, Ban bảo vệ chính trị nội bộ trung ương, đ/c Chủ nhiệm ủy ban kiểm tra khóa 7, khóa 8.
Hồi 16 giờ 30 ngày 8/7/2004, đồng chí Phan Diễn, Uỷ viên Bộ chính trị, Ủy viên thường trực Ban bí thư có mời tôi đến gặp tại phòng làm việc của đồng chí Phan Diễn (số 4 Nguyễn Cảnh Chân). Dự họp có đồng chí Thọ, Uỷ viên Trung ương, Trưởng ban bảo vệ chính trị nội bộ.
Do tính chất quan trọng của cuộc gặp và theo đúng Điều lệ Đảng về quyền hạn của đảng viên, tôi viết thư này kính gửi các đồng chí. Trước hết tôi nêu lại các ý kiến của đồng chí Phan Diễn và ý kiến của tôi về những việc liên quan đến vụ T4 đã phát biểu trong cuộc họp đó.
I.- Ý kiến của đồng chí Phan Diễn:
Tôi (đồng chí Phan Diễn) và đồng chí Tổng bí thư đã nhận được văn bản của các đồng chí về vụ T4.
Tôi (đồng chí Phan Diễn) đồng ý một số nội dung trong văn bản của đồng chí.
- Vụ T4 là một vụ án chính trị nghiêm trọng. Bộ chính trị đã tổ chức Ban kiểm tra liên ngành để xem xét. Ban kiểm tra liên ngành đã đề nghị Bộ chính trị và Bộ chính trị đã xác định là vụ án chính trị nghiêm trọng. Bộ chính trị đã giao cho cơ quan Pháp luật truy tố, đưa ra xử 4 người: Chấp, Nguyên, Vinh, Diệu Hà từ 5 năm tù trở lên, đã giao cho Đảng uỷ Quân sự trung ương xem xét các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục II. Đảng uỷ Quân sự trung ương đã báo cáo lên Bộ chính trị và Bộ chính trị đang xem xét.
- Tôi (đồng chí Phan Diễn) đồng ý với đồng chí (Nguyễn Nam Khánh) trong Pháp lệnh Tình báo và Nghị định 96/CP về Tình báo quân sự có nhiều nội dung sai phạm. Bộ chính trị đã giao cho Thường vụ Quốc hội xem lại Pháp lệnh Tình báo và giao cho văn phòng Chính phủ xem lại Nghị định 96/CP. Đồng thời đã chỉ thị cho Bộ quốc phòng hướng dẫn cho Tổng cục II xác định một số quy định và chỉ thị cho Tổng cục II không được theo dõi nội bộ.
- Sẽ cho kiểm tra, xem xét Tổng cục II từ tổ chức, nguyên tắc, thủ tục hoạt động. Việc này phải mất một thời gian.
- T4 là một vụ án nghiêm trọng nhưng Bộ chính trị phải chọn vấn đề gì trực tiếp ảnh hưởng đến nội bộ Đảng, Nhà nước, Quân đội mới làm, báo cáo cho Bộ chính trị rõ chứ không báo cáo cho Trung ương, có việc không nói cụ thể cho trung ương và không thảo luận.
Trong văn bản của đồng chí có đề cập đến sự liên quan của một số đồng chí lãnh đạo trước đây. Vì đã lâu rồi và không ảnh hưởng trực tiếp đến nội bộ Đảng hiện nay nên không làm. Vì đưa ra vấn đề này, sẽ tranh cãi rồi không kết luận được, sẽ làm cho tình hình phức tạp thêm.
- Trong vụ T4, có ý kiến anh Giáp, anh Mân, anh và một vài đồng chí nữa, nhưng Bộ chính trị không báo cáo ý kiến của các anh với Ban chấp hành trung ương, ngay cả ý kiến anh Phiêu cũng không báo cáo với Ban chấp hành trung ương. Ý kiến đề nghị có rất nhiều ý kiến khác nhau. Nếu đã đưa thì đưa hết thì Ban chấp hành trung ương khó khăn trong việc xem xét, và không thể kết luận được, làm cho nội bộ phức tạp thêm.
- Các vấn đề mà đồng chí nêu trong bản tài liệu gửi Bộ chính trị thì nhiều, có cái thuộc số người nói trên (ý nói là của Nguyên, Chấp, Vinh, Đặng Diệu Hà), không chính thức của Tổng cục II, có cái của chỉ huy Tổng cục II. Tôi biết, trong số bản tin này, Tổng cục II có đoạn đưa ra 10 bản tin có ký tên, một số không ký tên. Như vậy là thuộc về tài liệu mật và tài liệu không phổ biến. Nếu tài liệu này lộ ra ngoài, kẻ địch sẽ lợi dụng phá hoại Đảng. Nên tôi phê bình đồng chí là không tuân thủ nguyên tắc giữ bí mật tài liệu.
II.- Ý kiến của tôi (Nguyễn Nam Khánh)
Trước hết tôi (Nguyễn Nam Khánh), cám ơn Bộ chính trị, ban bí thư đã cho tôi biết ý kiến của Bộ chính trị và Ban bí thư về văn bản của tôi gửi Ban Chấp hành Trung ương, Bộ chính trị, Ban bí thư, Uỷ ban kiểm tra và các cơ quan chức năng. Sau đây tôi xin nói rõ ý kiến của tôi về các ý kiến của Bộ chính trị và ban bí thư mà đồng chí vừa nêu lên.
1/ Tôi đồng ý ý kiến nói rằng các nội dung trong văn bản của tôi nêu ra mà địch biết, địch có thể lợi dụng nên tôi đề nghị gặp đồng chí Tổng bí thư để trực tiếp nói rõ vụ T4 với đồng chí Tổng bí thư, tôi chờ hơn 1 tháng nhưng không thấy đồng chí Tổng bí thư trả lời lúc nào gặp được. Những sự thật mà tôi nêu ra chỉ gửi Trung ương, Bộ chính trị, Ban bí thư và các cơ quan chức năng. Tôi biết tại Hội nghị trung ương lần thứ 10 (khoá 9), Bộ chính trị sẽ báo cáo với Trung ương vấn đề T4. Như tôi đã viết trong văn bản: Với tầm quan trọng của vấn đề và theo đúng Điều lệ Đảng, tôi đã viết thư gửi cho Ban chấp hành trung ương, Bộ chính trị, Ban bí thư, Uỷ ban kiểm tra Trung ương và cơ quan chức năng. Tội trực tiếp niêm phong mang đến văn phòng Trung ương nhờ văn phòng Trung ương chuyển và ngoài bì tôi ghi rõ: Chỉ người có tên mới được bóc. Như vậy là hết sức cẩn thận về bảo mật. Tôi gửi cho Trung ương, Bộ chính trị, Ban bí thư, cơ quan chức năng, chứ không gửi cho địch. Nếu làm lộ tài liệu là do về các đồng chí nhận tài liệu, chứ tôi không làm lộ.
Việc tôi làm vừa qua là đúng nguyên tắc, đúng Điều lệ: "Đảng viên được phê bình, chất vấn về hoạt động của Tổ chức Đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức, báo cáo kiến nghị với cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời". Tôi không đồng ý ý kiến đồng chí phê bình tôi là sai nguyên tắc giữ bí mật tài liệu nội bộ. Đảng viên có quyền kiến nghị, đề nghị tới lãnh đạo các cấp, đến Bộ chính trị, đến Ban chấp hành Trung ương, đến Đại hội toàn quốc.
2/ Tôi đồng ý là Bộ chính trị, Ban bí thư có quyền lựa chọn vấn đề để giải quyết. Nhưng lựa chọn vấn đề gì để giải quyết là trên nguyên tắc bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ Chế độ. Không phải trên nguyên tắc cơ hội, hữu khuynh. Trong văn bản tôi gửi Trung ương, Bộ chính trị, Ban bí thư, Uỷ ban kiểm tra, các cơ quan chức năng, tôi nêu cả vấn đề T4 và chấn chỉnh Tổng cục II, một ít đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng vừa qua có liên quan đến Tổng cục II và T4, mục đích là để bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ Chế độ. Vì nếu không làm rõ vụ T4, những người chỉ huy Tổng cục II hiện nay và người lãnh đạo cấp cao liên quan đến T4 và Tổng cục II thì sẽ ảnh hưởng đến Đại hội 10, ảnh hưởng trực tiếp đến lựa chọn nhân sự cho Đại hội 10 và về sau nữa.
3/ Vụ T4 với những bản tin vu khống của nó không chỉ do một nhóm người: Chấp, Nguyên, Vinh, Đặng Diệu Hà làm mà có sự chỉ đạo của chỉ huy Tổng cục II. Như vụ vu khống đồng chí Phạm Chánh Trực, Nguyễn Văn Thắng (thường vụ quận uỷ quận 6-Tp/HCM), những đề nghị lập chuyên án người này, người kia là CIA đâu phải do Chấp, Nguyên, Vinh, Diệu Hà đưa ra mà do lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục II hiện nay (Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh), 255 bản tin dù có ký hay không đều do chỉ huy Tổng cục II gửi lên lãnh đạo cấp cao. Không phải do Chấp, Nguyên, Vinh, Diệu Hà gửi. Cho nên không chỉ đưa ra 4 người: Chấp, Nguyên, Vinh, Diệu Hà xử trước pháp luật, còn số chỉ huy, lãnh đạo Tổng cục II hiện nay (Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh) xử lý nội bộ là không đúng.
4/ Trong vấn đề dân chủ nội bộ, phi xuất phát từ động cơ quan điểm đúng, là vì lợi ích xây dựng và bảo vệ Đảng thì mới đi đến nhất trí; nếu vì động cơ cá nhân: "Phê bình đả kích cấp trên hoặc răn đe khống chế Đảng viên" thì không giải quyết được. Theo tôi, lãnh đạo cùng với Đảng viên bàn bạc dân chủ thì công việc mới kết quả. Tôi cảm ơn đồng chí đã nghe tôi phát biểu.
III.- Đồng chí Phan Diễn có ý kiến trở lại.
Cũng cho tôi cám ơn đồng chí đã có ý kiến trở lại về các ý kiến của Bộ chính trị và Ban bí thư. Đến đây kết thúc cuộc gặp giữa tôi và đồng chí Phan Diễn. Đồng chí Thọ ra trước. Tôi ra sau, bắt tay đồng chí Phan Diễn và nói thêm: Nếu các đồng chí không gửi tài liệu của tôi đến Ban chấp hành trung ương khóa 9 thì tôi có quyền và tôi có cách đến Hội nghị Trung ương lần 10/khóa 9 hoặc Hội nghị trung ương sau đó để trao văn bản rồi ra về. Đồng chí Phan Diễn nói lại: - Làm thế thì phức tạp quá.
Thưa các đồng chí,
Tôi ghi lại những ý kiến chính liên quan đến vụ T4 trong cuộc gặp với đồng chí Phan Diễn, thay mặt Bộ chính trị và Ban bí thư gặp tôi và tôi đề nghị mấy ý kiến:
1/ Theo Điều lệ Đảng và quyền hạn của đảng viên, tôi có quyền gửi kiến nghị, chất vấn đến Trung ương và Đại hội Đại biểu Đảng là cơ quan cao nhất Đảng. Tôi làm việc này trong tổ chức. Tôi làm đúng nguyên tắc. Tôi có nghe nói: - Khi báo cáo với Trung ương có đồng chí nói đã phân tích với tôi là tôi vi phạm nguyên tắc. Tôi đã trả lời đồng chí Phan Diễn: - Tôi không vi phạm nguyên tắc. Tôi làm theo đúng Điều lệ Đảng. Tôi khẳng định một lần nữa như vậy.
2/ Như tôi đã phát biểu khi tôi còn làm nhiệm vụ Uỷ viên trung ương rằng: Ban chấp hành trung ương bầu ra Bộ chính trị, Bộ chính trị không được đặt mình cao hơn trung ương. Ban chấp hành trung ương bầu ra Bộ chính trị, kiểm tra và giám sát Bộ chính trị. Bộ chính trị phải báo cáo với Trung ương các công việc xây dựng, củng cố Đảng, những vấn đề nội bộ Đảng, liên quan đến sự nghiệp bảo vệ Đảng, Nhà nước, Chế độ. Cho nên một lần nữa, yêu cầu Bộ chính trị gửi toàn văn bản của tôi đến Trung ương. Vấn đề T4, các vấn đề của lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục II rất nghiêm trọng, có hệ thống, rất nguy hiểm, liên quan đến sự trong sạch vững mạnh của Đảng, hạnh phúc của dân tộc nói chung và của các đảng viên là nạn nhân của sự vu khống chính trị của lãnh đạo Tổng cục II hiện nay. Không phải chỉ là của nhóm 4 người: Chấp, Nguyên, Vinh, Diệu Hà.
Kể từ vụ Sáu Sứ (1991), các vụ án dựng lên có bài bản, công phu đã gây hậu quả rất nghiêm trọng. Vụ Sáu Sứ, khóa 6 bàn giao cho khóa 7. Khoá 7 không làm. Khoá 8 bị ngăn cản, nên các người lãnh đạo Tổng cục II hiện nay lại tiếp tục gây ra các vụ án chính trị nghiêm trọng tiếp theo cho đến Đại hội .
Những tài liệu về vụ Sáu Sứ, các vụ liên quan đến Tổng cục II: vụ Ngọc sọ não, vụ người của Tổng cục II đưa lên mạng nói xấu lãnh đạo cấp cao của Đảng, vụ tên Vinh bán kế hoạch phòng thủ bầu trời cho địch, tên Kê làm pa-ra-bol để ăn cắp tiền, vụ đưa ảnh và tài liệu vu khống đồng chí Lê Khả Phiêu trước Đại hội 9, v.v... là những tài liệu về những kẻ phạm tội. Đó không có gì là bí mật với Trung ương, với Uỷ ban kiểm tra các khóa liên quan, với các đồng chí nguyên Uỷ viên Bộ chính trị, nguyên Uỷ viên Ban bí thư các khóa. Dấu diếm, ngăn cản, không làm rõ sự thật của tội phạm là phạm pháp, vi phạm đường lối, bản chất, truyền thống, và Điều lệ Đảng. Phát hiện kẻ tội phạm là có công. Vì có hiện tượng bao che, bịt kín sự thật về những tội phạm nghiêm trọng cho nên tôi phải làm rõ với Trung ương, Uỷ ban kiểm tra, các cơ quan chức năng và rồi đây báo cáo với các đồng chí nguyên uỷ viên Bộ chính trị, nguyên Uỷ viên Ban bí thư các khóa. Vũ Chính và Nguyễn Chí Vịnh là những kẻ đồng chủ mưu các vụ vu khống của lãnh đạo hiện nay của Tổng cục II. Phải đưa ra pháp luật. Vũ Chính và Nguyễn Chí Vịnh không phải là người có công trong vụ "khủng bố Võ Thị Thắng".
Quan điểm của Đảng là: - Thi hành Pháp luật, không trừ một ai dù người đó ở cương vị gì, dù tuổi tác bao nhiêu, dù trước đây đã giữ những chức vụ nào. Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, dưới sự chỉ đạo của các đồng chí thế hệ trước, Cục II đã có một đóng góp. Nhưng từ ngày Tư Văn, Vũ Chính nắm Cục 12 và Tổng cục II thì một bộ phận quan trọng Tổng cục II đã trở thành một công cụ vu khống chính trị. Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh đã phản bội lại truyền thống Tổng cục II.
3/ Uỷ ban kiểm tra trung ương là do Trung ương bầu ra, Uỷ ban kiểm tra trung ương có trách nhiệm độc lập của mình, phi kiên quyết, trung thực, dũng cảm vạch ra sự thật, vạch ra tội phạm. Nếu có điều gì Uỷ ban kiểm tra không thống nhất với Bộ chính trị thì có quyền báo cáo với ban chấp hành trung ương.
4/ Trong các đồng chí nguyên Uỷ viên Bộ chính trị, nguyên Uỷ viên Ban bí thư, nguyên Phó Thủ tướng có thể có ý kiến khác nhau về một số vấn đề. Điều đó hoàn toàn dễ hiểu. Trong các đồng chí ấy có 3 loại ý kiến: - Một số thấy rõ sâu sắc sự nghiệm trọng và thật nguy hiểm có hệ thống của các người lãnh đạo Tổng cục II hiện nay, - Có người bao che muốn dấu sự thật, - Một số người chưa rõ. Cho nên phải có thảo luận, tranh luận, sòng phẳng, thật sự dân chủ phân biệt đúng sai trong các đồng chí ấy. Bộ chính trị cần lắng nghe tất cả, phân biệt đúng sai trên quan điểm của Đảng, chứ không vì lý do có những ý kiến khác nhau mà xếp lại những vụ việc nghiệm trọng. Trung thực mà nói, ngay trong số đồng chí nguyên uỷ viên Bộ chính trị, nguyên Uỷ viên Ban bí thư, cũng có người, cá biệt dính líu đến các vụ của lãnh đạo Tổng cục II hiện nay.
Xếp lại những vụ nghiêm trọng liên quan đến việc xây dựng chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh là thiếu trách nhiệm chính trị đối với Đảng, nhân dân, Tổ quốc, thiếu trách nhiệm với những đồng chí bị vu khống chính trị. Lịch sử của dân tộc và của Đảng đã chứng minh rằng: Không ai có thể che dấu và bịt kín được sự thật. Sự thật sẽ tự mở đường mà đi.
Xin chúc các đồng chí sức khỏe, làm đúng tinh thần của Đảng: Kiên quyết làm đúng Pháp luật, không trừ một ai.
Xin chân thành cảm ơn.

Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh
Nguyên uỷ viên Trung ương khóa 5, khóa 6, khoá 7.
Nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.

Về Bà Võ Thị Thắng.

Có một người bạn hỏi tôi việc Chủ tịch nước Trương Tấn Sang viết trong sổ tang bà Võ Thị Thắng về chuyện bà bị bức hại.
Về chuyện này hơi dài và nhiều đụng chạm. Hơi khó nhưng tôi cứ viết ra đây những gì tôi biết, xuất phát từ vụ T4 tố Đại tướng Võ Nguyên Giáp là ĐỊCH. Bà Thắng gặp hoạ lây.

Chị Võ Thị Thắng ra đi đã để lại trong lòng mọi người niềm thương tiếc vô hạn, sự khâm phục và lòng biết ơn người nữ anh hùng kiên cường bất khuất trước quân thù, nụ cười của chị là nụ cười của dân tộc, của chiến thắng. Thương tiếc chị Võ Thị Thắng tôi tìm đọc những dòng chữ của mọi người ghi trong sổ tang. Nếu chị biết (tin rằng chị biết) được những lời chia ly của mọi người hẳn chị sẽ rất ấm lòng. Tuy nhiên tôi rất phân vân và có thể nói sửng sốt khi đọc lời ghi sổ tang của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Với cương của ông đang giữ phải nói là rất trọng trách của Nhà nước và của Đảng Cộng sản Việt Nam vì ông còn là ủy viên Bộ Chính trị và trước đó ông đã từng giữ chức Thường trực Ban Bí thư TW Đảng thì việc ghi sổ tang đối với một ủy viên TW nhất là đối với chị Võ Thị Thắng thì ông phải cân nhắc dữ lắm, có thể nói từng câu từng chữ một. Tôi suy nghĩ nhất đoạn ông viết "Thời nào cũng có kẻ hiểm ác, giấu mặt đối xử bất nhân nhưng Võ Thị Thắng vẫn lại hiêng ngang ngẩng cao đầu: ”Sống vĩ đại, chết vinh quang” vì nhận thấy nó chứa ẩn ý sâu xa hình như ông Sang ám chỉ tới một tổ chức hoặc một cá nhân nào đó đã đối xử ác hiểm với chị Thắng.
Sự thực, nếu không đọc lời ghi tang của Chủ tịch nước thì không thể biết được cái gì đã xảy ra với chị Võ Thị Thắng và vì sao đến lúc này Chủ tịch nước mới hé lộ ra những uẩn khúc cay đắng của chị gặp phải mà không phải là tổ chức Đảng. Từ đó, dẫn tới những người cùng chung thắc mắc tìm đến nhau và cùng nhau thu thập thông tin xung quanh sự việc này. Có ai đó đã hé mở về lời ghi tang của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trên Internet là chị Võ Thị Thắng đã bị một nhóm người có quyền lực định bắt chị gọi là vụ án T4 nhưng đã được lực lượng an ninh chặn lại. Nhờ vào thông tin này chúng tôi đã lần mò ra những manh mối, những người biết vụ này là những người trước đây đã giúp việc cho ông Trần Đình Hoan, Phan Diễn, Lê Minh Hương, Vũ Quốc Hùng. Họ nói vụ án này do bên an ninh làm gọi là T4, nay còn lưu ở Văn phòng TW. Nói đến vụ T4 thì ai cũng nghe nói đến, câu chuyện rất dài và những người biết thông tin này cũng không nắm được cụ thể quá trình vụ án mà chỉ nhớ một số tình tiết trong báo cáo kết luận vụ T4 của Bộ Chính trị năm 2004 như sau:
Chị Võ Thị Thắng bị một nhóm người là Đỗ Ngọc Chấp (Cục trưởng), Nguyễn Quang Vinh cán bộ Cục II và một số cán bộ Tổng cục II Bộ Quốc phòng theo dõi và phát hiện chị Võ Thị Thắng có liên hệ với CIA. Nhóm này có quan hệ mật thiết với ông Nguyễn Thái Nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ cùng vợ là Lê Thị Hiền công tác ở Tổng cục Du lịch cùng cơ quan với chị Võ Thị Thắng cung cấp cho nhóm Đỗ Ngọc Chấp nhiều thông tin quan hệ nghi vấn với CIA của chị Võ Thị Thắng. Nhóm Đỗ Ngọc Chấp cũng thu thập qua màng lưới ở Mỹ và tài liệu Mỹ ngụy để lại những thông tin về ông Trương Tấn Sang đã đầu hàng khi bị bắt và được CIA sử dụng cùng với đơn tố cáo của bà Nguyễn Thị Thu Hồng là 1 doanh nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh về việc đòi cưỡng dâm bà không thành nên ông Sang lập mưu bắt bỏ tù bà Hồng khi ông Trương Tấn Sang làm Chủ tịch UBND thành phố. Những thông tin trên đây đã báo cáo đến Tổng cục II quân đội và ông Vũ Chính đã soạn tin báo cáo gửi một số ông lãnh đạo chủ chốt Bộ Chính trị lúc đó gọi là Tin Tổng cục II lấy nguồn từ T4 (theo Tổng cục II Bộ Quốc phòng thì T4 là đầu mối điệp viên đang hoạt động ở Mỹ).
Không chỉ dừng lại ở báo cáo nguồn tin chị Thắng quan hệ với CIA, nhóm Đỗ Ngọc Chấp đã lập kế hoạch bắt bí mật chị Thắng để điều tra. Kế hoạch này được bà Lê Thị Hiền vợ ông Nguyễn Thái Nguyên cũng biết và đã fax cho ông Thái Nguyên đang công tác ở nước ngoài về kế hoạch bắt bí mật chị Võ Thị Thắng. Thông tin qua lại của vợ chồng ông Thái Nguyên bị Bộ Công an phát hiện được và đã lập án điều tra. Kết quả là Bộ Công an đã báo cáo Bộ Chính trị những thông tin nhóm Đỗ Ngọc Chấp, Nguyễn Quang Vinh Cục II, Tổng cục II quân đội báo cáo về chị Võ Thị Thắng làm việc cho CIA là giả tạo, xuất phát từ động cơ cá nhân của vợ chồng Thái Nguyên lợi dụng nhóm Đỗ Ngọc Chấp để thực hiện mưu đồ, điệp viên mang bí số T4 là không có thật, nhóm Chấp bịa ra để làm thành tích báo cáo cấp trên. Trên cơ sở báo cáo của Bộ Công an, Bộ Chính trị đã chỉ đạo bắt vợ chồng Nguyễn Thái Nguyên và nhóm Đỗ Ngọc Chấp để điều tra, vì vậy kế hoạch bắt bí mật chị Võ Thị Thắng chúng không thực hiện được. Chị Thắng được minh oan (các nguồn tin cho biết thực ra tin chị Võ Thị Thắng là CIA và bọn Chấp, Vinh định bắt chị cũng không mấy người biết). Được biết vụ án này kết thúc năm 2004, Nguyễn Thái Nguyên va bọn Chấp, Vinh... đã bị ngồi tù nhiều năm.
Trở lại lời ghi sổ tang về chị Võ Thị Thắng của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang "... kẻ hiểm ác, giấu mặt đối xử bất nhân", có phải chủ tịch muốn ám chỉ nhóm Đỗ Ngọc Chấp, Thái Nguyên không? Cứ theo thông tin thu thập được trên đây thì bọn Đỗ Ngọc Chấp tình báo quân đội là loại người hiểm ác, vì nó bịa đặt, nói không thành có, nó bịa đặt tội phản quốc với 1 ủy viên TW Đảng thì nó là loại tội ác tày trời chứ không dừng lại ở hiểm ác. Việc bỏ tù chúng là thích đáng, mong rằng Tổng cục tình báo quân đội phải chấn chỉnh để không bao giờ trong quân đội ta lại có loại người như bọn Chấp, Vinh.
Tuy nhiên dư luận chung vẫn không thỏa mãn về kết luận những đối tượng đã có mưu đồ hại chị Võ Thị Thắng, đó mới là "hiểm ác", còn loại "giấu mặt đối xử bất nhân" Chủ tịch nước muốn ám chỉ là ai? hẳn không phải là bọn Đỗ Ngọc Chấp. Trong đời sống chính trị của nước ta, việc đánh giá cán bộ, sắp xếp cán bộ, kỷ luật cán bộ phải là Ban Bí thư, Bộ Chính trị. Chị Võ Thị Thắng là ủy viên TW thì không thể chỉ Ban tổ chức TW hoặc một cá nhân nào quyết định được mà phải tuân theo nguyên tắc đó. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang là ủy viên Bộ Chính trị nhiều khóa, không thể không tham gia việc sắp xếp bổ nhiệm cán bộ, và không thể không tham gia việc sắp xếp chị Võ Thị Thắng trong bộ máy lãnh đạo của Nhà nước. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang quá hiểu điều này và nếu có gì oan ức với chị Thắng thì tại sao Chủ tịch lại không có ý kiến ngay khi họp Bộ Chính trị bố trí công tác cho chị Võ Thị Thắng, để đến bây giờ Chủ tịch mới ghi ra những từ khiến mọi người sửng sốt, rõ ràng là Chủ tịch nước Trương Tấn Sang vẫn đang nhằm vào ai đó, phải là người có chức có quyền trong bộ máy của Đảng và Nhà nước, đang kìm hãm sự phát triển của Chủ tịch nước? Có thể là nguồn tin bọn Đỗ Ngọc Chấp và tình báo quân đội báo cáo Chủ tịch nước Trương Tấn Sang có nghi vấn làm việc cho tình báo Mỹ khi bị bắt đến nay vẫn chưa được Bộ Chính trị kết luận chăng? Điều này thật vô lý vì đồng chí Trương Tấn Sang vào ủy viên Bộ Chính trị từ khi làm Bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, mặc dù bị kỷ luật cảnh cáo về Đảng nhưng vẫn liên tục là ủy viên Bộ Chính trị. Đến nay là người đứng đầu Nhà nước, còn ai to hơn bằng, vậy thì có gì mà phải lặt vặt trách móc thế?




Thứ Năm, 7 tháng 9, 2017

Nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng nói về việc G.S Tương Lai ra khỏi Đảng

Nguyễn Thị Thanh Bình: Thưa nhà báo, nhà văn, T.S kinh tế Phạm Chí Dũng, cho phép xin được “tra tấn” thêm một chuyên viên trả lời phỏng vấn rất tinh tế và thành thật như anh. Chắc anh đã nghe, đã thấy và cũng không lạ gì với tình trạng hỗn mang tranh sáng tranh tối của giới đấu tranh cho dân chủ tự do, và nhân quyền lúc này. Do đó hy vọng cuộc trò chuyện này được mở ra trong tinh thần xây dựng, có lý có tình hơn là sẵn sàng bôi bác, thành kiến và đào sâu thêm những hố thẳm chia rẽ, ngăn cách.

Thường thì khi đảng viên sắp hoặc đã về hưu trí, có chữ “nguyên” đi kèm đánh dấu mọi sự ngừng sinh hoạt, cũng có thể cả đảng phái của họ, thì những đảng viên ấy mới dám phản tỉnh bằng cách nộp đơn ra khỏi Đảng, vậy điều gì đã khiến họ phải “ngâm tôm” nỗi bứt rứt trăn trở của mình suốt năm tháng dài để cuối cùng mới dám đưa ra quyết định hẳn là rất nhiêu khê khó khăn ấy? Phải chăng đa phần chỉ vì sợ sẽ bị khai trừ sớm muộn trước sau gì, hoặc hứa hẹn gặp phải phiền toái nào đó nên đảng viên mới chọn cảnh “dứt áo ra đi” mà thôi, và khi ra đi thì liệu họ có còn điều gì để phải cảm thấy lấn cấn, ngoài những hệ lụy gia đình chăng?

Nhà báo Phạm Chí Dũng: Nếu tính từ năm 2013 trở lại đây, con số bỏ đảng là quá ít ỏi so với gần 4 triệu đảng viên đăng ký trên sổ sách của đảng. Tình hình này phản ánh tâm thế e ngại và sợ sệt vẫn bao phủ trong tuyệt đại đa số đảng viên, mặc dù theo tôi biết thì tâm lý đảng viên trong đảng đã quá chán ngán chế độ chính trị này, và hầu như mất hẳn niềm tin vào đảng.

Do bị gò bò bởi kỷ luật đảng và sợ ảnh hưởng đến vị thế chính trị lẫn công việc nên rất hiếm trường hợp đảng viên dám ra đảng trong lúc còn làm việc, mà chỉ đến khi nghỉ hưu mới có một ít người dám “xổ lồng”. Cho tới nay, đây vẫn là một tâm lý bao phủ lên 3,7 triệu đảng viên. 

Nhưng có một thực tế là ngay cả một ít đảng viên hưu trí từ bỏ đảng lại không phải xuất phát từ thái độ dứt khoát chia tay ý thức hệ hoặc phản kháng với một đảng tham nhũng, mà do những người này đã có những hoạt động bị đảng quy kết là “đa nguyên”, thậm chí “ủng hộ các thế lực phản động”, nên cấp ủy đảng gây sức ép khai trừ họ. Để tránh bị “hạ nhục”, những đảng viên này đã chủ động tuyên bố ra đảng trước khi bị khai trừ. 

Tuy nhiên, tình trạng thoái đảng lại rất lớn ở Việt Nam. Phần lớn những người thoái đảng thuộc về lớp cán bộ, công chức hưu trí. Họ âm thầm không nộp hồ sơ đảng từ nơi làm việc trước đó về nơi cư trú, và nếu sau một thời gian mà không thấy “nhắc nhở”, thì coi như không sinh hoạt đảng và cũng xem như đã “ra đảng”. Cũng có những đảng viên thoái đảng theo những cách khác như cố ý không sinh hoạt đảng dù có tên trong chi bộ địa phương, cố ý không đóng đảng phí, cố ý gây ra mâu thuẫn nội bộ để chi bộ bắt buộc phải khai trừ mình. Một số đảng viên khác, vì nguyện vọng đi định cư ở nước ngài cùng gia đình, đã đương nhiên đề nghị đảng xóa tên mình…

Năm 2013, một con số thống kê chính thức của một cơ quan đảng đã cho thấy có đến 40% đảng viên nằm trong những dạng thoái đảng khác nhau tại các địa phương. Cho tới nay, hẳn tỷ lệ này còn phải cao hơn, trong bối cảnh chính trị và xã hội nhiễu nhương hơn nhiều trước đây và còn chưa tới đáy.

Nếu như những năm trước, có những người muốn bỏ đảng nhưng vẫn lo sợ bị chính quyền cắt sổ hưu hoặc bị sách nhiễu bản thân và thân nhân, thì với một số trường hợp bỏ đảng từ năm 2013 đến nay, đặc biệt gần đây như ông Võ Văn Thôn – cựu giám đốc Sở Tư pháp TP.HCM, ông Lê Văn Hòa – cựu chuyên viên Ban Nội chính Trung ương, Giáo sư Nguyễn Đình Cống, nhà báo Tống Văn Công - nguyên Tổng Biên tập báo Lao Động… cho thấy áp lực và thủ đoạn gây khó khăn của chính quyền và công an đối với họ và những người thân giảm hẳn. Thậm chí đã xuất hiện một số trường hợp cán bộ hưu trí, xuất thân từ lực lượng vũ trang như quân đội và công an, cũng muốn công khai bỏ đảng.

Hoàn toàn không thể có chuyện chính quyền cắt sổ hưu của người bỏ đảng, vì làm như vậy là vi phạm pháp luật.

Một nguy cơ khác đối với đảng cầm quyền là đang manh nha dấu hiệu một số cán bộ lão thành, trung cấp và cả cao cấp, muốn từ bỏ đảng CSVN để trở về… đảng Lao Động. Trường hợp này vừa xảy ra với giáo sư Tương Lai ở Sài Gòn. Nếu khuynh hướng này mở rộng trong thời gian tới, tương lai “tách đảng” là dễ thấy.

Nguyễn Thị Thanh Bình: Dường như anh có người bố đã có 65 tuổi Đảng, và khi anh chia sẻ bức tâm thư đoạn lìa “ly dị” Đảng, thì ba anh có tỏ ra thông cảm cho một đứa con vốn có cá tính mạnh và độc lập tư duy như anh chăng? Thật ra anh đã phải thuyết phục gia đình như thế nào để được tôn trọng tự do cá nhân và sự dũng cảm của anh, cũng như thấy quyết định của anh là một quyết định đứng đắn hợp thời đã dám buông bỏ, thoát ra khỏi những cũi lồng để được bay bổng tự do?

Nhà báo Phạm Chí Dũng: Thật ra, tôi đã không hề hỏi ý kiến ba tôi về việc tôi công khai tuyên bố từ bỏ đảng vào tháng 12 năm 2013, vì tôi không muốn bị phân tâm bởi sự tác động của gia đình.

Việc từ bỏ đảng của tôi hoàn toàn không dễ dàng: từ năm 2003 khi nhận thấy càng đấu tranh thì tham nhũng càng nhiều, tôi bắt đầu nhận ra nếu chỉ có một đảng thì triển vọng chống tham nhũng sẽ là vô phương. Tôi bắt đầu nghĩ đến nhiều hơn một đảng để có được cơ chế kiểm soát chéo quyền lực như ở phương Tây, và cũng bắt đầu nghĩ đến việc đến một lúc nào đó sẽ ra đảng.

Nhiều đảng viên vẫn cho rằng ở lại trong đảng thì có điều kiện đấu tranh hơn là ra đảng. Nhưng tôi lại nhận ra một bài học đắt giá là chính đảng CS cũng luôn tuyên truyền và thuyết mị như thế để mọi người khỏi ra đảng, trong khi thực tế từ trước đến nay việc đấu tranh hiệu quả chống tiêu cực trong đảng là vô cùng hiếm hoi, mà bằng chứng rất rõ là toàn bộ những đảng viên trí thức, cựu quan chức trong nhóm 72 trước đây và nhóm 61 sau này đã không nhận được bất kỳ một hồi âm nào từ phía đảng và chính quyền sau khi họ gửi đi nhiều bản kiến nghị đầy tâm huyết.

Phải mất 10 năm tôi mới có được quyết định của mình. Tôi không cho đó là một sự dũng cảm của bản thân, mà chỉ đơn giản là khi tôi thấy ông Lê Hiếu Đằng – mà tôi xem như một người anh – quyết định viết thư bỏ đảng trên giường bệnh, tôi nghĩ rằng nếu lúc đó mà tôi không thể quyết định bỏ đảng thì e rằng sau đó có thể bị nhụt chí và chẳng biết bao giờ mới có đủ quyết tâm.

Vậy là ngay đêm hôm sau khi ông Lê Hiếu Đằng ra đảng, tôi viết tâm thư từ bỏ đảng và công bố luôn trên mạng xã hội để chặn đường lùi của mình, và sang ngày hôm sau mới nộp đơn ra khỏi đảng cho chi bộ như một thủ tục cần có. Sau đó cũng buồn một thời gian, nhưng lại nhẹ lòng vì mình không còn nằm trong một chính đảng không đi cùng được với nhân dân. Phải ra đảng, rồi muốn ra sao thì ra… 

Nguyễn Thị Thanh Bình: Về việc chọn một ngày đặc biệt như ngày “Quốc Khánh 2/9” để xin ra khỏi “Đảng Nguyễn Phú Trọng” đang thao túng, nhưng vẫn muốn “chiến đấu” trong vai trò một đảng viên cũ của Đảng Lao Động, G.S Tương Lai là một khuôn mặt trí thức nổi bật của XHCN mới đây nhất vẫn một mực nêu cao “Tư tưởng HCM”, vậy liệu anh có thấy mình ủng hộ sự chọn lựa này, hay ít nhất là tôn trọng, đồng cảm với việc G.S Tương Lai đã chặt đứt tư duy “còn Đảng còn mình” với Đảng CSVN hay “Đảng Nguyễn Phú Trọng”, cách gọi muốn nhấn mạnh của G.S chăng. Liệu như thế có đồng nghĩa là G.S Tương Lai cho rằng Đảng của đời này (Nguyễn Phú Trọng) khác với Đảng của đời xưa (Hồ Chí Minh) và dĩ nhiên đảng của những thế hệ trước, thế hệ của chính G.S đã có mặt tham dự đóng góp là tốt, và đáng ca ngợi trường tồn, và đó là điều vị G.S này có quyền núp bóng hãnh tiến, nhất là khi phải đối diện với “Đảng Nguyễn Phú Trọng” đương thời thì than ôi chỉ thấy rặc những tham vọng quyền lực, giáo điều không thể chấp nhận được, nên phải nói lời chia tay, và như thế liệu có điều gì lợn cợn, lập lờ và điều gì bất ổn dưới cái nhìn dứt khoát của nguyên là đảng viên CS như anh?

Nhà báo Phạm Chí Dũng: Theo những tin tức mà tôi được biết trong mấy năm qua, việc đưa đảng Cộng sản VN trở lại tên đảng Lao Động là tâm tư của một bộ phận nhỏ đảng viên, chủ yếu là đảng viên hưu trí. Kể cả đổi tên nước, từ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong thâm tâm, những đảng viên này có phần tin rằng nếu trở lại quá khứ dù chỉ với tên gọi như thế, đảng cầm quyền ở Việt Nam có thể tự thanh lọc mình và gần dân, vì dân hơn.

Từ năm 2014, khi cuộc xung đột trong nội bộ đảng CSVN trở nên công khai và dữ dội, sử dụng mạng xã hội để bôi xấu và tấn công nhau, có những dấu hiệu một lực lượng trong đảng có thể đã muốn ngả về khuynh hướng “tách đảng”, tức tách đảng CS làm hai - một phần là đảng CS, còn phần kia trở về đảng Lao Động. Nhưng cần chú ý, “tách đảng” và “đa đảng” là hai việc khác nhau nhiều về bản chất. Với động cơ tiếp tục duy trì quyền lực và lợi ích nhóm của những lực lượng trong nội bộ đảng, “tách đảng” chỉ là một hình thức “đảng trong đảng”, mà về thực chất vẫn là cuộc chơi tham tàn của các nhóm xuất thân từ đảng CS, chưa hẳn chấp nhận đa nguyên chính trị và vẫn không có vai trò của nhân dân trong đó. 

Tôi tôn trọng suy nghĩ và cách hiểu của những đảng viên hưu trí muốn trở về tên đảng Lao Động. Tuy nhiên, cần nói thẳng là cho dù có gắn tên Lao Động hay những cái tên khác cho đảng mà không thật sự cải cách theo hướng bỏ điều 4 hiến pháp về độc đảng, tam quyền phân lập một cách thực chất và công nhận xã hội dân sự - tức những quyền căn bản của nhân dân đã được hiến định – thì cũng sẽ chỉ là động tác “thay áo” để mị dân mà thôi. Có khi lại kéo dài thêm một thời kỳ đau khổ mới cho con dân nước Việt, vốn trước đó đã quá khốn khổ.

Nguyễn Thị Thanh Bình: Trong bức tâm thư ra khỏi Đảng vốn được nhiều người và dư luận tâm đắc của anh mới đó cũng đã gần 4 năm rồi, anh đã viết không kém những bài diễn văn hùng hồn, và mãnh liệt nhất của một giai đoạn lịch sử có những đảng viên trí thức phản tỉnh: “Tôi tự thấy Đảng CS không còn đại diện và phục vụ cho quyền lợi cho đại đa số nhân dân và điều đó đi ngược với tôn chỉ mục tiêu ban đầu của Đảng, cùng lời thề của tôi khi vào Đảng. Do vậy, tôi không còn phù hợp với vai trò và nghĩa vụ một đảng viên trong Đảng CS.” Và câu kết luận rất đánh động lòng người: “Không nhằm mục đích chống Đảng, tôi thành tâm cho rằng thái độ từ bỏ Đảng CS là một trong những con đường ngắn nhất để gần gũi với nhân dân và quyền lợi người nghèo. Trong tận cùng tâm thức, một công dân tốt có ý nghĩa hơn nhiều so với một đảng viên tồi.” Tâm đắc ở đây đồng nghĩa với sự ủng hộ hết mình, và cảm phục tấm lòng cùng ý chí sâu sắc của anh. Vậy thì qua bản “Tuyên bố” của G.S Tương Lai, anh có thể chia sẻ là anh tán thành với G.S điều gì và không thể đồng cảm điều gì? Nhất là tôi hơi thắc mắc một điều là không phải chính ông Hồ Chí Minh cũng đã thú nhận với đảng viên kỳ cựu là ông Nguyễn Văn Trấn: “Không, tôi chẳng có tư tưởng gì, ngoài tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lê.” Không lẽ G.S Tương Lai không thấy cả thế giới đã rũ bỏ thứ chủ thuyết lỗi thời Mác-Lê này hay chính ông một lần nữa phải tự đánh lừa mình có một “hệ tư tưởng”, một chủ thuyết giả tưởng như thế làm kim chỉ nam để giữ sự tồn tại trong một chế độ chuyên chính, hay chỉ là những mâu thuẫn đối kháng nội tâm nào đó thật không dễ để giải thích? Chúng ta cũng đã có dịp nghe khá nhiều bình luận và chỉ trích trên những trang cá nhân Facebook, cũng như báo chí truyền thông với những bài viết thẳng thắn của TS Hà Sĩ Phu, TS Nguyễn Quang A, cựu TNLT Phạm Thanh Nghiên…. Ước gì có thêm một cái nhìn lắng đọng, phân tích cặn kẽ chân tình đến từ một nhà báo độc lập, đối lập như anh. Và điều này hy vọng sẽ được G.S Tương Lai đón nhận lên tiếng phản hồi trong tinh thần “dân chủ đa nguyên” trong nay mai.

Nhà báo Phạm Chí Dũng: Tôi tôn trọng quan điểm của giáo sư Tương Lai, nhưng tôi thấy khó chia sẻ suy nghĩ trở về “đảng Hồ Chí Minh” của ông. Câu chuyện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã là quá khứ của hơn bảy chục năm trước, cùng sự khác biệt rất lớn về bối cảnh kinh tế, xã hội, chính trị, quốc tế. Không có gì bảo đảm là nếu đảng CS chịu lấy lại tên đảng Lao Động thì tình hình đất nước sẽ khả quan hơn. Cũng chưa có bất kỳ cơ sở nào để nhìn ra một sự “thành tâm” của giới chóp bu trong đảng CS nếu họ muốn “thay áo”. Tất cả chỉ tính toán cho quyền lực cá nhân và lợi ích nhóm, lo tranh giành đấu đá, tham nhũng và “ăn của dân không chừa thứ gì”.

Vào năm 2014 và 2015, không ít đảng viên và cả người thuộc giới đấu tranh dân chủ nhân quyền ở Việt Nam đã từng kỳ vọng vào Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng như một “Gorbachev Việt Nam”. Nhưng rốt cuộc ngoài vài lời nói ve vuốt mơ hồ về dân chủ và tinh thần “thoát Trung”, ông Dũng đã không thể hiện bất cứ hành động nào để ít ra cũng cho thấy ông ta quan tâm đến tuyệt đại đa số người dân Việt đang ngụp lặn trong vũng bùn quan chức. Ngược lại là đằng khác, chế độ Nguyễn Tấn Dũng bị rất nhiều người xem là một chế độ tham nhũng và phá chưa từng có trong toàn bộ lịch sử của triều đại cộng sản ở Việt Nam. Giả dụ sắp tới Nguyễn Tấn Dũng có đứng ra thành lập hoặc hậu thuẫn để thành lập đảng Lao Động thì hành động này cũng chỉ là hình ảnh “bình mới rượu cũ” mà thôi.

Vì thế, tôi nghĩ rằng giáo sư Tương Lai nên dứt khoát tuyên bố từ bỏ đảng CS chứ không chỉ cắt đứt liên hệ với “đảng Nguyễn Phú Trọng thao túng”, trước khi đảng này có thể làm điều gì đó xúc phạm ông. Còn ở thêm trong đảng ngày nào, còn phải mang danh nghĩa đảng viên của một đảng mà đã từ lâu không còn của dân nhưng vẫn ăn thuế của dân, điều được gọi là lòng tự trọng và liêm sỉ của mỗi chúng ta đều đáng bị người dân đánh giá thấp hơn thế.

Một khả năng có lẽ duy nhất mà tôi thấy có ý nghĩa là nếu giáo sư Tương Lai và những người như ông khởi động một phong trào trở về tên đảng Lao Động, việc này có thể lôi kéo một số đảng viên đảng CS “tự chuyển hóa”, làm tiền đề cho việc tách đảng CS, trước khi dẫn đến đa đảng một cách thực chất. Hành động này sẽ được nhiều đảng viên, cựu quan chức và kể cả quan chức đương nhiệm ủng hộ theo nhận thức “có còn hơn không”. Tuy nhiên, làm thế nào để khi trở về tên đảng Lao Động mà không bị các lực lượng và các nhóm lợi ích trong đảng CS lợi dụng thì lại là một vấn đề rất khó khăn, mà về điều đó thì tôi e rằng có thể sẽ không được kiểm soát bởi giáo sư Tương Lai hay những người như ông. 

Sau cùng, tôi muốn nói về Tương Lai. Đất nước này, xã hội này đang tràn ngập những chỉ dấu bất ổn và chuẩn bị biến động như thời chỉ vài ba năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1990. Khi đó, đảng Cộng sản Liên Xô còn đến 20 triệu đảng viên kia mà! Và cả 5 triệu quân nhân lẫn 3 triệu công an! Nhưng tất cả đều bất động trước một biến đổi mang tính quy luật của lịch sử. Việt Nam cũng đang và sẽ như vậy chỉ trong ít năm nữa thôi, bất chấp số đảng viên được xem là “trung thành” còn tới gần 4 triệu người. Và cũng chỉ trong ít năm nữa thôi, tôi tin rằng sẽ có nhiều hơn hẳn đảng viên không vì phải chịu sức ép khai trừ mà sẽ hoàn toàn chủ động chia tay với đảng, chia tay với một chính đảng phi nhân bản để kiếm tìm một bến bờ mới hứa hẹn nhân văn hơn rất nhiều. Dù là để đến được bến bờ đó, xã hội và chính trị Việt Nam có thể phải trải qua một thời gian đầy biến động và hỗn loạn như thời hậu Xô viết vào thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Tôi nghĩ rằng cần chờ đợi thêm, nhưng là chờ đợi trong tâm thế chủ động. Sau SUY tất phải VONG, rồi mới PHỤC được. Mỗi người trong chúng ta vẫn có thời gian cho những lựa chọn chính trị của mình.

Trân trọng cảm ơn thời giờ quý báu, chịu khó soi rọi kỹ lưỡng những góc khuất của lòng mình và xã hội cho độc giả khắp nơi của nhà báo, nhà văn Phạm Chí Dũng.

7/9/2017

Nguyễn Thị Thanh Bình thực hiện


Thứ Tư, 6 tháng 9, 2017

TỪ TÂN TRÀO VỀ HÀ NỘI - Trích Hồi ký của cụ Vũ Đình Huỳnh.

Nhân kỷ niệm 72 năm cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9, xin trích Hồi ký của ông Vũ Đình Huỳnh (1906-1990), thư ký đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Vụ trưởng Vụ Lễ tân (Bộ Ngoại giao)... về lần đầu tiên được gặp Bác và những ngày sôi động của cách mạng tháng Tám, năm 1945
I. LẦN ĐẦU GẶP ÔNG CỤ
Tại Tân Trào, tôi gặp lại Sao Đỏ (bí danh của đồng chí Nguyễn Lương Bằng, nguyên Phó Chủ tịch nước). Chúng tôi lên sớm hơn các đại biểu khác để tham gia vào việc chuẩn bị. Tôi và Sao Đỏ ở trong một nhà dân, Ông Cụ ở lán.
Ông Cụ là biệt hiệu của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Trước khi lên Đại hội Tân Trào, tôi chưa được gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc lần nào. Nhưng từ lâu rồi, và không riêng đối với tôi, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành nhân vật thần thoại, ngọn cờ của cách mạng Việt Nam.
Lần này lên Tân Trào, tôi mang theo hy vọng được gặp con người thần thoại đó. Vừa mới chân ướt chân ráo tới chỗ Sao Đỏ, anh đã bảo tôi:
- Này, Ông Cụ hỏi tôi về tình hình nhân sĩ trí thức của Hà Nội và Bắc Hà đấy, tôi nói cái này tôi không rành, sẽ có đồng chí khác báo cáo. Bây giờ anh lên rồi, anh tới gặp Ông Cụ đi!
Chúng tôi đi vào trong rừng, tới một cái lán. Khi chúng tôi bước vào, Ông Cụ đang ngồi chăm chú đọc một cuốn sổ tay nhỏ. Gầy còm nhưng rắn rỏi, đôi mắt sáng và linh lợi, với chòm râu thưa, Ông Cụ tiếp chúng tôi một cách cởi mở, giản dị.
Với giọng trầm và ấm, từ trong ngực phát ra, Ông Cụ hỏi qua về tôi rồi đề nghị tôi nói cho ông nghe về tình hình trí thức trong nước.
Tôi báo cáo với Ông Cụ những gì tôi biết, từ phong trào Cần Vương trở đi, ai còn, ai mất, trong đám Đông Kinh nghĩa thục, Phục Việt là gì, đám trí thức trong các nhóm Thanh Nghị, Tự lực Văn đoàn, Ngày nay... và thái độ của từng người đối với Việt Minh và cách mạng dân tộc thế nào...
Ông Cụ nghe chăm chú, thỉnh thoảng mới ngắt lời tôi để hỏi kỹ thêm về một người nào đó.
- Này, cụ Huỳnh Thúc Kháng, sao nghe nói có hợp tác với Tây?
- Chuyện đó không có - tôi đáp - sau khi ở Côn Đảo về, cụ Huỳnh Thúc Kháng ra báo “Tiếng Dân”, Tây ngại, muốn mua chuộc, có mời cụ ra làm Viện trưởng Viện Dân biểu thật. Hồi ấy tôi có đi Huế để yết kiến cụ Huỳnh. Tôi thấy cụ vẫn giữ được tư cách nhà Nho, yêu nước thương dân chứ không phải phường cơ hội. Tây định lợi dụng uy tín của cụ, nhưng cụ đâu có dễ để cho chúng toại nguyện.
Ông Cụ gật gù, vẻ thích thú :
- Tại sao lại gọi ông Tố là ông Phán Men? Nghiện rượu à?
- Ông Nguyễn Văn Tố nhà ở Hàng Bút, đi làm tận gần Bờ Sông, nhưng không bao giờ đi xe kéo, mà chỉ đi bộ, khi nào cũng cầm ô đi sát tường, đi men tường, mới thành cái biệt hiệu ông Phán Men.
Ông Cụ cười thành tiếng. Giọng cười ám áp, thư thái và truyền cảm:
- Thế còn linh mục Phạm Bá Trực? Ông ta cũng yêu nước?
Tôi phải kể dài dòng về vị linh mục này. Khoảng những năm đầu 1930, linh mục Trực tốt nghiệp mấy bằng tiến sĩ ở Rôma trở về nước, ai cũng nghĩ ông sẽ được phong giám mục, vậy mà giáo chức người Pháp lại đưa ông về thị xã Hà Đông trông một xứ đạo nhỏ, chỉ vì ông bướng bỉnh chống lại những lề thói phân biệt đối xử giữa linh mục Tây và ta.
Thấy cố đạo Tây lộng hành, ông mắng. Thấy linh mục ta không được phép ăn chung với linh mục Tây, ông chống. Ông chống cả việc linh mục Tây vào gặp giám mục thì bắt tay mà linh mục ta thì phải tụt giày, vái lễ. Ông Phạm Bá Trực có câu nói nổi tiếng: “Đứng trước Chúa, không có sự phân biệt màu da”.
Ông Cụ tỏ vẻ hài lòng với những thông tin của tôi. Tuy sơ kiến, nhưng tôi cảm thấy Ông Cụ thật gần gũi.
Hội nghị Tân Trào đang họp thì có tin báo lên, Hà Nội đã nổi dậy cướp chính quyền. Trần Huy Liệu được phân công viết cấp tốc Lời kêu gọi Tổng khởi nghĩa.
Sau đó là lễ xuất phát của Giải phóng quân. Bức ảnh chụp Giải phóng quân xuất phát có Võ Nguyên Giáp đội mũ phớt là do anh Hoàng Văn Đức chụp. Lúc đó trong số đại biểu chỉ có Hoàng Văn Đức là có máy ảnh mang theo.
Đại hội bế mạc. Chúng tôi chia tay nhau. Đặng Xuân Khu (bí danh của Trường Chinh), Võ Nguyên Giáp và tôi trở về Hà Nội bằng đường Thái Nguyên. Hoàng Quốc Việt và Sao Đỏ về đường Tuyên Quang. Phạm Văn Đồng được phân công ở lại củng cố căn cứ địa.
Chúng tôi lúc ấy cũng chưa tin chắc ở thắng lợi trọn vẹn, vì thế vẫn cứ phải có một cái gì đó đảm bảo cho trường hợp xấu. Anh Đồng rủ tôi ở lại căn cứ địa, nhưng tôi từ chối:
- Tôi là người quen thuộc Hà Nội, anh em còn cần tới tôi nhiều.
Trong thâm tâm, tôi muốn mau chóng trở về thành phố thân yêu, nơi tôi hình dung đang có những cuộc chiến đấu ác liệt giành lại chính quyền của các lực lượng vũ trang cách mạng.
Chúng tôi đi bộ qua đèo Re ra Đại Từ, ở đó có một chiếc xe Jeep tàng đã đợi sẵn. Chúng tôi lúc lắc đi tới Phấn Mễ, người mệt nhừ. Tôi bảo anh em rẽ vào trại của Nghiêm Xuân Yêm, bạn tôi, nghỉ lại.
Đến đây, chúng tôi mới biết Mỹ đã ném bom xuống Hiroshima và Nagasaki vào hai ngày 6 và 9 tháng 8, đồng thời tin Liên Xô tuyên chiến với Nhật ngày 9 tháng 8.
Xe chúng tôi về tới Bắc Giang thì gặp Huyên (bí danh của Nguyễn Thanh Bình, nguyên Ủy viên Thường trực Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Thủy lợi).
Anh thay xe cho chúng tôi, bởi vì về Hà Nội trên cái xe ọp ẹp kia nom thảm quá, hơn nữa nó lại ì ạch như sên. Đi trên chiếc xe Ford đen chững chạc hơn, nhanh hơn, mới được một đoạn thì gặp đường vỡ vì nước lớn, chúng tôi lại phải quay trở lại đi vòng về Phả Lại để chạy hướng Cầu Đuống.
Lòng chúng tôi bồn chồn như lửa đốt. Suốt dọc đường, Đặng Xuân Khu cứ chồm mình về phía trước, như thể bằng cách đó, anh có thể làm cho xe đi nhanh thêm. Trầm tĩnh hơn, hoặc mệt mỏi hơn, Võ Nguyên Giáp lim dim mắt ngủ thiêm thiếp.
Tới Cầu Đuống, tôi đề nghị cả ba xuống xe vào nhà một ông giáo có chân trong Hội Truyền bá Quốc ngữ và là người có cảm tình với cách mạng. Tôi mượn nhà giáo cái xe đạp, để Đặng Xuân Khu và Võ Nguyên Giáp lại, đạp một lèo về Hà Nội. Tôi về trước là để nghe ngóng tình hình cụ thể, sau đó mới lên đón hai người, biết đâu...
Ai dè về tới Gia Lâm đã thấy phố xá chìm ngập trong rừng cờ đỏ sao vàng. Qua cầu Đume (cầu Long Biên), tôi xộc ngay vào phố Chợ Gạo gặp Nghiêm Tử Trình.
Vừa kịp hỏi: - “Tình hình thế nào, đưa Đặng Xuân Khu, Võ Nguyên Giáp về được rồi chứ?” thì Trình trợn mắt lên: - “Cướp chính quyền xong rồi. Ra Bắc Bộ phủ thì gặp tất cả chúng nó”.
Tôi nhảy luôn lên xe, phóng tiếp. Bắc Bộ phủ đây rồi! Trên nóc đá đen của nó tung bay lá cờ của ta. Trước cửa Bắc Bộ phủ người lính của ta đứng gác. Tôi đưa bàn tay ngang trán chào anh giải phóng quân, đi vào.
Trong Bắc Bộ phủ, anh em đang xúm xít làm việc bên một cái bàn rộng. Nguyễn Khang, Nguyễn Văn Trân, Nguyễn Văn Thân ôm chầm lấy tôi. Tôi báo tin các anh Đặng Xuân Khu, Võ Nguyên Giáp đang chờ ở Cầu Đuống. Anh em cho lấy ngay một xe Commăngca của Nhật đi đón.

Ảnh : Chủ tịch Hồ Chí Minh và thư ký Vũ Đình Huỳnh ở Paris năm 1946. (Ảnh tư liệu)
 Ảnh : Ông Vũ Đình Huỳnh tháp tùng Hồ Chủ tịch đón Tổng thống Indonesia Sukarno tại sân bay Gia Lâm năm 1959. ( Ảnh tư liệu)

Có lẽ do ảnh hưởng của bản báo cáo miệng của tôi với Ông Cụ về tình hình trí thức Bắc Hà và kết quả những cuộc tiếp xúc của tôi và Võ Nguyên Giáp với trí thức mới đây, nên trong cuộc họp Thường vụ Trung ương Đảng tại nhà Trịnh Văn Bô (khoảng 21 hoặc 22/8/1945), anh Sao Đỏ đã đề nghị tôi tách khỏi mọi công tác để giúp việc cho Ông Cụ.
Mặt khác, trong thời kỳ hoạt động bí mật, tôi đi lại nhiều, có nhiều hiểu biết về các địa phương trong nước, có quan hệ với nhiều người thuộc nhiều giới khác nhau, mà Ông Cụ thì lại mới từ nước ngoài về, cần đến một người như tôi ở bên cạnh để tham khảo ý kiến. Đề nghị của anh Sao Đỏ được Thường vụ tán thành.
Quả vậy, việc đầu tiên của Ông Cụ sau khi đặt chân lên đất Hà Nội là nhanh chóng xây dựng bộ máy chính quyền cách mạng trung ương gồm những người có danh tiếng, đại diện cho tinh hoa đất nước. Với bản tính khiêm tốn, trọng kẻ sĩ, Ông Cụ không tự coi mình cao hơn hết, những người cộng sản giỏi hơn hết, không cần tới ai khác.
Cũng tại Tân Trào, sau khi kết thúc câu chuyện với anh Sao Đỏ và tôi, Ông Cụ nói: “Chúng mình là cái men thôi, gây nên được rượu là nhờ vào cơm nếp, phải có đông đảo quần chúng tham gia mới thành cách mạng”. Ông Cụ coi nhân sĩ, trí thức là thứ men tốt, cần phải kéo họ về mình.
Bước dừng chân đầu tiên nơi cửa ngõ Thủ đô của Ông Cụ là làng Phú Gia ở bên kia sông Hồng. Anh Đặng Xuân Khu (Trường Chinh) lập tức sang sông gặp Ông Cụ để báo cáo công việc.
Ngày 24/8/1945, tôi đón Ông Cụ về 48 Hàng Ngang, lần này với tư cách là người thư ký riêng, mà hồi đó người ta thường gọi là bí thư.
Ngôi nhà 48 Hàng Ngang là nhà riêng của Trịnh Văn Bô, một nhà tư sản có tiếng của thành phố hồi ấy. Anh chị Bô rất có cảm tình với cách mạng và đã tích cực giúp đỡ các cán bộ của Đảng trong những ngày ta chưa lấy được chính quyền.
Xe đón Ông Cụ từ Phú Gia về Hà Nội qua cầu Long Biên là rẽ ngay đường Hàng Khoai rồi tạt hông chợ Đồng Xuân về 48 Hàng Ngang (chứ không phải đi theo đường Hàng Cân như một số hồi ký đã viết).
Đường phố đã lên đèn. Tưng bừng tiếng trống ếch thiếu nhi, đó đây những dòng người biểu tình thị uy hô vang những khẩu hiệu cách mạng, ở góc đường một đám đông đang đứng nghe một cán bộ diễn thuyết về chương trình mười điểm của Việt Minh...
Cả Hà Nội tắm mình trong không khí ngày hội lớn.
Khi bước lên xe, Ông Cụ hỏi tôi:
- “Bây giờ anh cho tôi về đâu?”.
- “Thưa Cụ, anh em đã bố trí một cơ sở chu đáo". Tôi đáp, biết Ông Cụ là người cẩn thận.
Xe đến cầu Long Biên, Ông Cụ ngả hẳn người ra kính cửa xe nhìn những gióng sắt của cây cầu rồi nhìn xuống sông Hồng. Cái nhìn vừa chăm chú lại vừa bỡ ngỡ. Tôi tự hỏi không biết đây có phải là lần đầu tiên Ông Cụ nhìn thấy những cảnh này không?
Chẳng lẽ Ông Cụ chưa một lần ra đất Thăng Long?
Nhưng tôi không dám hỏi. Khi đi gần hết cầu, Ông Cụ lẩm bẩm:
- “Nước to”.
Chỉ mãi tới khi xe chạy ngang hông chợ Đồng Xuân, Ông Cụ mới nói với tôi:
- “Tôi chưa biết Hà Nội bao giờ cả”.
Tôi đáp: - “dạ” và cảm thấy xót xa trong lòng: Khổ cho Ông Cụ, biết Paris, biết Berlin... mà lại chưa biết Hà Nội.
Ông Cụ về Hà Nội với bộ quần áo chàm và cái túi vải cũng nhuộm chàm mà người Tày thường đeo trong khi lên nương rẫy hoặc đi chợ, con người mà vài năm sau được cả thế giới biết tiếng.
Sáng hôm sau, Ông Cụ bảo tôi báo cáo lại lần nữa, tỉ mỉ hơn, cụ thể hơn về từng vị nhân sĩ, trí thức. Tôi ngạc nhiên trước sự quan tâm đặc biệt của Ông Cụ đối với các vấn đề tôn giáo, đặc biệt là đạo Thiên Chúa.
Những gì tôi báo cáo, Ông Cụ ghi vào sổ tay, bằng chữ Hán, rất ngắn gọn, chỉ vài ba chữ là đủ. Từ những dòng ghi vắn tắt đó đã ra đời kế hoạch thành lập Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Hằng ngày, tôi đón Ông Cụ ra Bắc Bộ Phủ làm việc. Sau ít ngày ở 48 Hàng Ngang, Ông Cụ chuyển đến ở ngôi nhà của Chánh án Tòa Thượng thẩm cũ, số 8 phố Bonchamp (trước cửa Thủy Tạ, sau bị Pháp phá trụi), chỉ trở về Hàng Ngang để ăn cơm.
Chị Trịnh Văn Bô ngày ngày đặt hai thồi cơm bên Đông Hưng Viên, một hiệu cao lâu có tiếng của người Tàu ở phố Hàng Buồm, đến giờ họ khắc bưng sang.
Trong những ngày sôi động này, ngoài công việc hằng ngày với Ông Cụ (mà chúng tôi bắt đầu gọi bằng Bác cho thân mật) tôi vẫn thường được Bác phái đi gặp các nhân sĩ, trí thức, đặc biệt là các cụ cao tuổi như cụ Nguyễn Văn Tố, cụ Phạm Bá Trực, cụ Bùi Bằng Đoàn...
Tôi nhớ mãi cái buổi tối đến mời cụ Nguyễn Văn Tố tham gia việc nước. Cụ pha trà mời tôi rồi khiêm tốn từ chối:
- “Tôi là con người không làm cách mạng được, chỉ biết chút chữ nghĩa, nhưng không hiểu gì chính trị, xin các ông miễn cho...”.
Cụ nói thẳng bằng giọng hết sức thật thà, khiêm tốn. Đến khi tôi nói rõ cụ Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc và nay Cụ Hồ mời các cụ ra gánh vác quốc sự, mưu hạnh phúc cho dân thì cụ Tố cảm động nói:
- “Cụ đã nói thế, tôi còn biết từ chối làm sao... Thôi thì còn chút trí mọn nào tôi xin cống hiến hết”...
( Theo báo Nông nghiệp ngày nay)

Thứ Ba, 5 tháng 9, 2017

Đơn yêu cầu đưa ra xét xử công khai vụ án “xét lại chống đảng”của công dân Phạm Thị Tề

Hà Nội, ngày 20.02.1994                                                                                         
    
 Kính gửi:     Ông chánh án Toà án nhân dân tối cao.
                     Ông Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Đồng kính gửi: Ông chủ tịch Quốc hội.
Ông tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam.
Ông Thủ tướng Chính phủ.
Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Hội luật gia Việt Nam, các cơ quan truyền thông, các bạn tù Sơn La, họ hàng và bạn hữu... (Để biết và cho ý kiến)
Kính thưa các quý ông,
Tôi là Phạm Thị Tề, 83 tuổi, giáo viên đã nghỉ hưu
Hiện ngụ tại 5 Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Tôi làm đơn này yêu cầu các cơ quan pháp luật nhà nước đưa ra xét xử công khai vụ án phi pháp: “Vụ xét lại chống Đảng” (còn gọi là vụ Hoàng Minh Chính), mà chồng tôi là một trong những nạn nhân.
Chồng tôi – Vũ Đình Huỳnh – nguyên thành viên tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội, nguyên đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam (1930), nguyên bí thư cho chủ tịch Hồ Chí Minh, nguyên giám đốc công thương liên khu III - IV, nguyên vụ trưởng Vụ lễ tân Bộ ngoại giao, nguyên Vụ trưởng Ban thanh tra Chính phủ, huân chương Kháng chiến Hạng Nhất, nghỉ hưu từ 1964 và đã mất tại nhà riêng ở Hà Nội 03.05.1990.
Tháng 10.1967, do có những bất đồng quan điểm với nghị quyết IX của Ban chấp hành Trung ương Đảng, nhà tôi bị bắt giam cùng với hàng chục cán bộ trung, cao cấp khác, bị biệt giam 6 năm, quản thúc 3 năm, tới 1975 mới được thả về.
Tất cả các cuộc bắt bớ, giam cầm này đều thực hiện một cách bí mật, hoàn toàn trái với pháp luật. Tất cả các nạn nhân đều bị đưa đi biệt giam trong nhiều năm mà không hề có một toà án nào xét xử, không hề được biện minh cho mình như luật định.
Gần 30 năm đã trôi qua mà vụ án phi pháp này vẫn bị vùi trong bóng tối, khi mà ông Lê Đức Thọ – trưởng ban “kết tội và xét án” của Ban chấp hành Trung ương Đảng, người chịu trách nhiệm chính trong vụ này – cũng đã chết.
Tôi lấy ông Huỳnh vì yêu mến lý tưởng mà ông ấy theo đuổi: đấu tranh chống chế độ thực dân để giành quyền độc lập tự do cho dân tộc. Trong những năm trước Cách mạng, gia đình tôi là cơ sở tin cậy của Đảng tại Hà Nội. Một mình tôi vừa làm ăn buôn bán nuôi con, chu cấp cho chồng và đóng góp cho tổ chức, tôi luôn tin vào ngày nước nhà độc lập.
Cách mạng thành công, nhà tôi được Bác Hồ chọn làm bí thư riêng và đã giúp Bác đắc lực trong những năm sau đó. Kháng chiến bùng nổ, theo Đảng, theo Bác, gia đình tôi bỏ Hà Nội lên chiến khu Việt Bắc, rồi phiêu bạt xuống Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hoá. Tuy khó khăn gian khổ về vật chất nhưng lại là những năm tháng thật đẹp: không có đặc quyền, đặc lợi, cấp trên cấp dưới đâu ra đấy mà vẫn thương yêu nhau hết mực...
Năm 1954, hoà bình lập lại, gia đình tôi trở về Hà Nội mà lòng tràn ngập tin tưởng và vui sướng. Ước mong mà cả gia đình theo đuổi đã thành sự thật. Cuộc sống đã mở ra viễn cảnh tốt đẹp cho gia đình tôi.
Sau này, tôi cũng được nghe đôi điều về những bất đồng với lãnh đạo của ông Huỳnh trong vụ Cải cách ruộng đất, trong Cải tạo công thương nghiệp, trong Nhân văn Giai phẩm. Tuy nhiên, ông Huỳnh cùng gia đình vẫn được sống yên ổn trong suốt thời gian đó. Sau nghị quyết IX của BCH Trung ương Đăng (9.1963), ông Huỳnh và một số cán bộ trung cao cấp khác lại có bất đồng. Tôi nghĩ đó là chuyện bình thường, như bàn tay có ngón dài, ngón ngắn.
Tôi không thể ngờ vào đêm 18.10.1967 tai hoạ đã giáng xuống gia đình tôi. Công an ập vào bắt giữ chồng tôi và sau khi lục soát đã đem đi tất cả những tấm ảnh nhà tôi chụp chung với Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc, ở phố Hàng ngang những ngày Bác viết Tuyên ngôn Độc lập, ở Paris khi nhà tôi được Bác phong Đại tá cận vệ trong phái đoàn dự Hội nghị Fontaitlebleau. Vào thời điểm bị bắt, nhà tôi đã nghỉ hưu được 3 năm.
Ai có thể hiểu được nỗi cay đắng của tôi lúc đó? Một người phụ nữ hai lần chứng kiến cảnh bắt bớ chồng mình ở hai chế độ đối kháng nhau: lần thứ nhất (1940) bị bắt và kết án 3 năm tù khổ sai tại nhà tù Sơn La vì can tội hoạt động chống đối chế độ thực dân, lần thứ hai (1967) bị bắt và đưa đi biệt giam – không có án – ngay trong chế độ Dân chủ Nhân dân, một chế độ mà chính ông ấy đã góp xương máu tạo dựng nên, một chế độ “Một triệu lần dân chủ hơn chế độ tư bản”.
Rồi “phúc bất trùng lai, hoạ vô đơn chí”, vài tháng sau ngày ông Huỳnh bị bắt, con trai tôi – Vũ Thư Hiên, biên tập viên Báo ảnh Việt Nam – cũng bị bắt trên đường về nhà, cũng bị biệt giam, cũng chẳng có một toà án nào xét xử xem nó phạm tội gì? Hai bố con bị biệt giam mỗi người một nơi. Vũ Thư Hiên sau đó bị nhốt chung với tù hình sự. Đến 1976, sau 9 năm bị giam giữ không có án, con tôi mới được tha về.
Những năm sau đó, báo chí bị cấm không được nhắc tới cái tên Vũ Đình Huỳnh, cấm không được đăng ảnh Bác Hồ mà trong ảnh đó có ông Huỳnh. Các báo và các nhà xuất bản bị cấm không cho cái tên Vũ Thư Hiên được xuất hiện trên sách báo – dù chỉ là dịch giả “truyện ngắn Pautopxki” (tập truyện này theo yêu cầu của nhiều độc giả, đã được tái bản dưới tên Kim Ân, là vợ của Thư Hiên) – rồi một vài truyện ngắn của Thư Hiên được liệt vào “dòng văn học tư sản phản động”?!
Tai hoạ liên tục giáng xuống gia đình tôi: cả chồng, cả con đều bị bắt. Lương hưu của nhà tôi, lương của con tôi bị cắt. Còn lại tôi với chín đứa con và một đàn cháu phải sống trong cảnh thiếu thốn khốn cùng. Nhưng thiếu ăn, thiếu mặc không khủng khiếp bằng nỗi khổ tinh thần: bạn mình, bạn chồng xa lánh vì sợ liên luỵ, con cái bị trù dập. Nhà tôi trước đây lúc nào cũng đông khách mà sau đó chẳng còn ai lai vãng. Không khí khủng bố nặng nề, công an mật theo dõi ngay trước cửa 24/24 thì thử hỏi còn ai dám đến thăm?
Để duy trì cuộc sống cho gia đình và có điều kiện thăm nuôi chồng con, tôi phải bán dần đồ đạc, tài sản: xe cộ, bàn ghế, giường tủ... Đến khi cùng đường, không còn một thứ gì có thể bán được nữa, tôi đành phải bán nốt tài sản cuối cùng của mình là ngôi nhà số 8 ngõ Tràng An, nhà này tôi mua từ trước Cách mạng (lúc bán được 2 cây vàng, nếu để lại đến nay đã có giá 100 cây). Ngôi nhà mà hiện nay gia đình tôi đang sống (5, Hai Bà Trưng) là nhà của anh ruột tôi cho ở nhờ và quản lý hộ.
Thế là sau mấy chục năm trời bỏ cả tín ngưỡng, nhà cửa, tài sản hăng hái theo Đảng, theo Cách mạng, những tưởng cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn, nào ngờ tai bay vạ gió, gia đình tôi rơi vào cảnh trắng tay: không nhà cửa, không tài sản, danh dự bị bôi nhọ, bị vu oan là “chống Đảng phản Cách mạng”.
Năm 1972, nhà tôi được tạm tha, nhưng không cho về Hà Nội mà bị buộc quản thúc tại Nam Định. Gian truân nối tiếp gian truân, nhưng cũng còn may mắn hơn một số người khác, không đến nỗi phải bỏ xác trong tù như ông Phạm Viết, hoặc được tha về để chết tại gia như ông Phạm Kỳ Vân (những người này cũng bị quy vào nhóm “chống Đảng” nói trên).
Đến năm 1975, nhà tôi mới được tha hẳn về Hà Nội để sống nốt những năm tháng cuối đời cho đến khi trút hơi thở cuối cùng 03.05.1990.
Những lần gặp ông Lê Đức Thọ trong tù, chồng tôi vẫn bảo lưu quan điểm của mình và một mực yêu cầu ông Lê Đức Thọ phải đưa vụ này ra công khai, xét xử theo Hiến pháp và pháp luật, không thể vin vào cớ “bảo vệ Đảng chỉ xử lý nội bộ” để bắt và giam giữ những người chưa được pháp luật định tội.
Trong những ngày cuối đời mình, ông Lê Đức Thọ có cho người đến đón nhà tôi lên gặp. Nhưng khi đó ông Huỳnh đã rất yếu, điếc nặng, trí nhớ giảm sút. Sau đó ông Thọ mời tôi đến. Trong câu chuyện, ông tỏ ý sẽ giải quyết riêng việc khôi phục danh dự cho nhà tôi trước. Tôi cảm ơn nhưng không chấp nhận vì vụ này liên quan đến nhiều người, không thể giải quyết riêng rẽ như vậy được. Tôi nói với ông Thọ: “Anh giải quyết như vậy thì tôi còn mặt mũi nào nhìn thấy những người bị oan ức khác”. Rõ ràng ông Thọ vẫn cho mình cái quyền tối thượng – nhân danh Đảng – tuỳ tiện bắt và giam giữ những người mà ông ấy cho là chống đối, rồi lại định khôi phục danh dự cho một cá nhân nào đó – coi như một sự ban ơn – mà chẳng cần đến luật pháp nào hết.
Không phải một mình ông Huỳnh nhà tôi chịu cảnh đoạ đày, các con tôi cũng phải chịu vạ lây hết sức vô đạo lý. Có hẳn những chỉ thị bằng văn bản từ Ban tổ chức Trung ương Đảng đưa xuống các cơ quan, hướng dẫn cần phải o ép con em những người trong “nhóm chống Đảng” như thế nào. Thiết nghĩ, chỉ kém cái kiểu “tru di tam tộc” dưới thời phong kiến không nhiều lắm.
Dù có viết hàng nghìn trang giấy cũng không nói hết những nỗi khổ ải, nhục nhằn, những gánh nặng oan khiên, day dứt của những người trực tiếp và gián tiếp bị dính vào vụ “xét lại chống Đảng”.
Hiến pháp và pháp luật, quốc hội và toà án, chính quyền dân chủ nhân dân và nhân quyền đã được ghi thành văn bản giấy trắng mực đen, là thành quả được đổi bằng núi xương sông máu của hàng triệu cán bộ đảng viên đã bị ông Lê Đức Thọ chà đạp không thương tiếc.
Ông Lê Đức Thọ đã nhân danh đảng hành động như một nhà độc tài vô nhân đạo với ngay những người bạn, những người đồng chí đã cùng nhau chia sẻ gian lao trong nhà tù đế quốc, những đồng chí đã cưu mang chính bản thân mình trong những năm tháng khó khăn nhất của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc – chỉ vì họ đã suy nghĩ không giống mình và đã dám nói ra những suy nghĩ ấy. Thật là đau đớn và tôi nghĩ nỗi đau đó làm se lòng hàng triệu trái tim yêu Tự do và Công lý.
Tôi oán ông Lê Đức Thọ vô cùng, tôi cho rằng ông ấy là người độc ác và hạn hẹp về trí tuệ. Tôi càng uất ức hơn khi chồng tôi mất đi mà không kịp nhìn thấy ngày sự thật được đưa ra ánh sáng. Nhưng sau khi ông Thọ mất đi mà chẳng thấy những người kế tục lãnh đạo Đảng đưa vụ này ra công khai thì tôi hoàn toàn thất vọng. Tôi đồ rằng căn nguyên của vụ án này, cũng như biết bao vụ án khác chưa từng được bất kỳ toà án nào xét xử, không phải ở một cá nhân Lê Đức Thọ. Căn nguyên của tất cả những vụ oan ức nói trên là hậu quả của sự độc quyền lãnh đạo của một số cán bộ cấp cao của Đảng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tại sao ở nước Mỹ, một đất nước “đầy bất công và bạo lực, chỉ có dân chủ cho một số ít giai cấp tư sản...” mà người ta vẫn có thể đưa một vị tổng thống ra toà vì bị phát hiện là phạm pháp? Còn ở nước ta, trong một chế độ “một triệu lần dân chủ hơn” pháp luật lại không đụng đến lông chân người lãnh đạo cao cấp khi chính người này phạm pháp? Chúng ta đang sống trong những năm cuối cùng của thế kỷ XX hay đang sống giữa thời trung cổ, khi người ta chỉ kết án một tên đao phủ, còn đối với một “quý ông đao phủ” thì không?
Sau khi nhà tôi mất, ông Lê Đức Thọ có gửi thư chia buồn đến gia đình tôi. Ông Thọ viết: “Tôi rất thương và nhớ anh, anh là đồng chí tốt, khuyết điểm trong thời gian qua chỉ là nhất thời. Lúc anh ra tù trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và khi mới giành được chính quyền anh đã có công đóng góp phần mình vào công tác chung của Đảng. Đảng không bao giờ quên những đóng góp của anh trong thời gian đó”.
Có thể hiểu như thế nào về những điều ông Lê Đức Thọ đã viết trên?
Nếu như ông Huỳnh có “khuyết điểm” như ông Thọ đã nói, thì với tư cách một đảng viên, ông Huỳnh phải chịu kỷ luật của chi bộ Đảng nơi ông sinh hoạt dưới các hình thức: phê bình, cảnh cáo, khai trừ lưu Đảng đến khai trừ vĩnh viễn khỏi Đảng. Việc bắt người và giam giữ là việc của các cơ quan Pháp luật Nhà nước, sau khi thực hiện đầy đủ các thủ tục theo luật định: khởi tố, lập toà án xét xử và kết án.
Vậy vì lẽ gì mà chồng tôi, con tôi bị bắt, bị giam giữ gần cả chục năm trời không có án?
Vì bất đồng quan điểm, vì “tư tưởng lệch lạc” chăng? Chỉ vì những điều này thì chưa kết tội được bất kỳ ai.
Vì “xét lại” chăng? Thế nào là “xét lại” ?
Vì “phản Đảng – phản Cách mạng” chăng? Liệu có thể khép lội ông Huỳnh và các nạn nhân khác vào điều luật nào trong Bộ luật tố tụng hình sự?
Nếu đã có thể khép tội nhà tôi và các nạn nhân khác theo pháp luật thì ông Thọ chẳng dại gì không sử dụng bộ máy hành pháp.
Nhưng theo lệnh của ông Lê Đức Thọ, việc bắt và giam giữ hàng loạt cán bộ vẫn được thực hiện trong bí mật.
Đó chính là điều phi pháp trong hành động của ông Lê Đức Thọ. Và đương nhiên, khi những người lãnh đạo cấp cao của Đảng không tôn trọng pháp luật, dẫn đến tình trạng bất công xã hội thì lòng tin của mọi tầng lớp nhân dân vào Đảng bị xói mòn nghiêm trọng, dẫn tới việc Hiến pháp và pháp luật chưa bao giờ được thực hiện nghiêm chỉnh.
Sau Đại hội VI của Đảng, cánh cửa dân chủ đã hé mở. Ông Huỳnh lại có thư gửi tới nguyên tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam – Nguyễn Văn Linh – một lần nữa yêu cầu ông Linh đưa vụ này ra ánh sáng.
Nhưng chỉ có sự im lặng từ phía những người cầm quyền, như thể yêu cầu của ông Huỳnh được gửi vào cõi hư vô.
Tuy nhiên, trong vài năm qua, tình hình đã có nhiều thay đổi. Năm 1992 Hiến pháp mới ra đời cùng hàng loạt các bộ luật khác trong nhiều lĩnh vực. Báo chí và các cơ quan truyền thông thường xuyên kêu gọi nhân dân “hãy sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”.
Đất nước có nhiều chuyển biến trong thời mở cửa. Đảng đã chấp nhận một xã hội đa thành phần kinh tế, đó là nền tảng của một thể chế dân chủ.
Nghe nói, sang năm 1994, Đảng và nhà nước chủ trương xây đựng một nhà nước pháp quyền dân chủ, chủ trương đoàn kết và hoà hợp dân tộc, kêu gọi tất cả các dân chúng Việt Nam ở trong và ngoài nước – bất kể chính kiến – cùng nhau góp sức xây dựng đất nước có công bằng xã hội và giàu mạnh.
Ông Lê Đức Thọ đã chết, song không phải vì thế mà vụ này vẫn tiếp tục bị vùi trong bóng tối. Không chỉ riêng chúng tôi, những người trực tiếp và gián tiếp là nạn nhân trong vụ này, mà tất cả những người có lương tri và yêu công lý đều yêu cầu đưa vụ này ra ánh sáng.
Giải oan cho những người bị oan ức là việc cần phải làm và không bao giờ muộn, nó sẽ đem lại lòng tin cho cả triệu người vào Đảng và Nhà nước. Xưa, vụ án oan ức “Lệ chi viên” đã đẩy Nguyễn Trãi và tất cả những người ruột thịt của ông vào cảnh “tru di tam tộc”: hơn hai mươi năm sau, vua Lê Thánh Tông lập đàn giải oan cho ông, để lại tiếng thơm muôn đời.
Vì đó là việc làm nhân nghĩa và hợp đạo lý.
Tôi khẩn thiết kêu gọi tình người nơi các ông – từ trái tim rỉ máu bởi nỗi đau oan ức của tôi, các con tôi và những nạn nhân khác. Tôi hy vọng các ông là những người có trái tim cũng biết đau nỗi đau đồng loại, hy vọng các ông là những con người có trí tuệ công minh và có đầy đủ nhân cách dân chủ.
Ông Vũ Đình Huỳnh – chồng tôi – một trong những nạn nhân của vụ “xét lại chống Đảng” đã chết. Còn tôi đã 83 tuổi, cuộc sống chỉ còn đếm từng ngày. Tôi làm đơn này không chỉ yêu cầu các cơ quan pháp luật đưa ra công khai vụ “xét lại chống Đảng”, xác định trắng đen rõ ràng, giải toả oan ức cho chồng tôi và những nạn nhân khác, mà còn hy vọng góp sức lực cuối cùng của mình vào quá trình xây dựng một nhà nước pháp quyền dân chủ thực sự.
Tôi hoàn toàn không muốn lá đơn này lại được trả lời bằng sự im lặng. Và nếu cái sự không mong muốn ấy lại đến, thì tôi đành phải nói với các con tôi rằng: “Chưa có dân chủ thật sự đâu, các con ạ”.
Và các con tôi sẽ lên tiếng. Nếu cả mười đứa con tôi chết đi mà vụ này vẫn chưa được đưa ra công khai, thì đời cháu tôi và những thế hệ sau chúng sẽ tiếp tục đòi hỏi yêu cầu chính đáng này trong sự truyền nối.
Cuối cùng, xin gửi tới các ông lời chào trân trọng.

Hà Nội ngày 20 tháng 02 năm 1994
Nguyên đơn
Công dân Phạm Thị Tề
05, Hai Bà Trưng, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội
Hồ Chí Minh, Picasso và Vũ Đình Huỳnh...
Đơn yêu cầu của bà quả phụ Vũ Đình Huỳnh, nhũ danh PhạmThị Tề, đã trình bày rõ ràng trường hợp Vũ Đình Huỳnh, một trong những nạn nhân của vụ án xét lại chống Đảng gắn liền với tên tuổi của ông Hoàng Minh Chính.
Bên lề vụ án Vũ Đình Huỳnh, thiết tưởng cũng xin nêu lên một tội ác văn hoá nghiệm trọng. Theo lời kể của ông Huỳnh (đăng trên tạp chí Văn nghệ Quân đội), năm 1967, bộ máy an ninh đã tịch thu tại nhà ông một bức chân dung chủ tịch Hồ Chí Minh của Pablo Picasso. Bức chân dung này, Picasso đã vẽ tặng Hồ Chí Minh năm 1946, khi chủ tịch Việt Nam dân chủ cộng hoà đến thăm hoạ sư tại xưởng vẽ. Vẫn theo lời ông Huỳnh, Picasso và Nguyễn Ái Quốc đã quen nhau trong những năm 1920 ở Paris. Bức hoạ này hiện nay đâu rồi?