Thứ Hai, 29 tháng 4, 2013

Đất nước những tháng năm thật buồn



 Đất nước những năm thật buồn
Nửa đêm ngồi dậy hút thuốc vặt
Lần mò trên trang mạng tìm một tin lành
Như kẻ khát nước qua sa mạc
Chung quanh yên ắng cả
Ngoài đường nhựa vắng tiếng xe lại qua
Người giàu, người nghèo đều ngủ
Cả bầy ve vừa lột xác
Sao mình thức?
Sao mình mải mê đeo đuổi một ngày mai tốt lành?
Bây giờ lá cờ trên Cột cờ Đại Nội
Có còn bay trong đêm
Sớm mai còn giữ được màu đỏ?
Bây giờ con cá hanh còn bơi trên sông vắng
Mong gặp một con cá hanh khác?
Bao giờ buổi sáng, buổi chiều nhìn ra đường
Thấy mọi người nhẹ nhàng, vui tươi
Ấm áp ly cà phê sớm
Các bà các cô khỏe mạnh yêu đời
Hớn hở tập thể dục
Bao giờ giọt nước mắt chảy xuống má
Không phải gạt vội vì xấu hổ
Ngước mắt, tin yêu mọi người
Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta
Trong không gian đầy sợ hãi?
Những cây thông trên núi Ngự Bình thấp thoáng ngọn nến xanh
Đời đời an ủi
Cho người đã khuất và người sống hôm nay …

Nguyễn Khoa Điềm

22.4.2013

Thứ Bảy, 6 tháng 4, 2013

NỖI ĐAU CÒN ĐÓ.



 Trung tướng Trần Độ - Nguyên Phó Bí thư Quân ủy Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, Ủy viên Trung ương Đảng,  Phó Chủ tịch Quốc hội



  “Những người có tâm, có đức sẽ sống mãi...”.  Trần Kiến Quốc

Đây là bài viết của Trần Kiến Quốc – con trai Tướng Trần tử Bình sau khi viếng cụ Trần Độ về.

Trần Kiến Quốc là bạn thân thiết của tôi. Mạn phép bạn tôi đăng bài viết của bạn trên blog của mình.



Nghe tin tang lễ cụ Trần Độ, một lão thành cách mạng, được tổ chức tại Nhà tang lễ quốc gia, chúng tôi có mặt từ sớm. Từ 8 giờ ngày 14-8-2002, họ hàng, bạn bè thân hữu, đồng chí đồng đội trong 2 cuộc kháng chiến của dân tộc, các văn nghệ sĩ… đã tập trung về số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội. Cửa hàng bán hoa ngay cổng hôm nay thật đắt khách. Bàn đăng ký vào viếng đặt ngay gần cổng, các đoàn đến viếng được các nhân viên ghi theo ý đồ của ban tổ chức. Khắp nơi thấy sắc phục của lực lượng công an và kiểm soát quân sự. Trong sân, dọc theo tường 2 cánh gà nhà tang lễ là những vòng hoa tươi của các đoàn chờ đến lượt. Khách đợi vào viếng đứng ngồi trò chuyện dưới bóng mát của hàng cây xanh cách nhà tang lễ một khoảng trống.
Khi len được vào bên trong nhà tang lễ thì nghe thông báo trên loa: “Đoàn Tổng cục Chính trị do ông Hân (Phó chủ nhiệm) dẫn đầu vào viếng ông Trần Độ”. Trong tiếng nhạc “Chiêu hồn tử sĩ” trầm hùng, 2 chiến sĩ mặc lễ phục trắng đỡ vòng hoa đi nghiêm dẫn khách vào viếng. Linh cữu cụ được đặt ở trung tâm, xung quanh đã có sẵn những vòng hoa và các bức trướng. Áo quan có mở cửa sổ vừa đủ thấy khuôn mặt cụ. Cụ nhắm mắt thanh thản như vừa làm xong một việc lớn. Tấm băng-rôn đen treo trên tường đá đen với dòng chữ trắng “LỄ TANG ÔNG TRẦN ĐỘ” làm ai cũng xúc động, nghẹn ngào - Tang lễ tổ chức khác thường quá với một người có công lớn với nước! Một bầu không khí nặng nề bao phủ. Mọi thành viên trong gia đình mặc đồ đen. Có lẽ chỉ có Văn phòng Quốc hội, Ban Tổ chức Chính phủ, Tổng cục Chính trị là những cơ quan được phép đi viếng chính thức.
Các hãng thông tấn nước ngoài AFP, Reuteur, CNN, BBC… đều có mặt. Có hãng cử nhân viên đứng trong nhà tang lễ, ghi tỉ mỉ tên từng đoàn khi trực tiếp đọc băng tang gắn trên các vòng hoa. Họ xem cụ được đối xử ra sao.
Đoàn bạn tù Sơn La – Hỏa Lò vào viếng có các cụ Nguyễn Văn Trân, Nguyễn Đức Tâm, Nguyễn Thanh Bình… Ông Lê Đức Anh, bạn chiến đấu ở R, gửi vòng hoa đến viếng. Riêng cụ Mười Hương từ Sài Gòn nghe tin cũng bay ra viếng bạn. Cụ đã yếu lắm, một tay đã  bị liệt, tay còn lại chống ba-toong, chân lết từng bước 5-10cm nhưng cương quyết không để cho ai đỡ(?!). Sau khi viếng bạn, cụ Mười Hương đã ôm lấy bà Hằng khóc nấc lên. Thật cảm động!Hội Nhà văn, Hội Nghệ sĩ tạo hình, Hội Nhạc sĩ, Hội Nghệ sĩ múa, Hội Tuồng, Hội Chèo… đều cử đoàn đến viếng. Tôi gặp các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng Cù Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Hữu Mai, Hữu Thỉnh, Hà Xuân Trường, nhạc sĩ Trần Hoàn… những người một thời cùng làm việc với cụ ở Bộ Văn hóa, Ban Văn hoá – văn nghệ Trung ương, Ban Văn hóa Quốc hội… Họ đến với niềm đau thương sâu sắc chia buồn cùng gia đình.Trên bàn ghi lời chia buồn là những quyển sổ tang bọc vải đen. (Khi chuẩn bị tang lễ, ban tổ chức đề nghị dùng giấy rời “chất lượng cao” làm sổ tang, nhưng gia đình không nghe). Hai nhân viên tỏ ra rất nhiệt tình sắp xếp bút, sổ và mời khách vào bàn ghi sổ tang. 
Đến lượt chúng tôi vào viếng thì nghe thông báo: “Ông Võ Nguyên Giáp gửi vòng hoa đến viếng ông Trần Độ”. Thế mới biết, cụ Văn là con người trọn nghĩa, vẹn tình. Quãng năm 1946, cụ giao nhiệm vụ cho cụ Độ dịch và in 2 quyển sách từ tiếng Trung Quốc “Công tác chính trị viên đại đội” và “Công tác chính trị trong đại đội” để cấp cho các đơn vị. Đến năm 1954, khi cụ Văn là Tư lệnh mặt trận Điện Biên Phủ thì Đại đoàn 312 do cụ Lê Trọng Tấn và cụ Trần Độ chỉ huy đã tấn công vào Sở chỉ huy và bắt sống tướng Đờ-Cát. Rồi những năm đầu thập kỷ 60 cùng đi học Gen-staff ở Liên Xô để chuẩn bị đánh Mỹ… Những tình cảm ấy thật khó phai!
        Các đoàn lần lượt vào viếng. Nắng càng về trưa càng gắt, nhưng dòng người vẫn nối đuôi nhau vào viếng. Từ sớm đến trưa có dễ đến vài nghìn người đến viếng. Trên sân, các cựu chiến binh thì thào trao đổi và chuyền tay những bản thảo viết về thủ trưởng của mình. Họ vẫn dành cho cụ những tình cảm tin yêu, quý trọng, dù cho có người nói nọ nói kia. Không ít những vị khách không mời - đeo kính đen - len lỏi trong các cựu chiến binh để nghe ngóng xem các cụ nói gì. Lắm vị bị các cụ chỉ mặt đuổi thẳng tay... Có đoàn mang vòng hoa với dòng chữ “Kính viếng lão tướng Trần Độ” thì bị ban tổ chức yêu cầu bóc ra thay bằng dòng chữ “Kính viếng ông Trần Độ”. Một cựu chiến binh dõng dạc: 
- Tin buồn trên báo Quân đội và Nhân dân ghi ông là trung tướng. Đúng không?
- Dạ, đúng.
- Thế ông đã già thì có phải là lão hay không? Ghi “lão tướng” có gì sai?
- Dạ, chúng cháu chỉ biết làm theo lệnh trên.
Nhà sử học Dương Trung Quốc khi đến viếng đã kính cẩn ghi vào sổ tang: “Tưởng nhớ đến người đã có công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Những gì còn lại sẽ được lịch sử phán xét!”.
Đau lòng hơn khi một cựu chiến binh mới viết xong lời tâm sự với thủ trưởng cũ và lời chia buồn với gia đình, vừa đứng lên đã bị nhân viên đứng sau lưng giật sổ, đòi xé  trang mới viết. Không đồng ý, ông giằng tay giữ lấy cuốn sổ tang. Phóng viên nước ngoài thấy ầm ĩ đã ập đến…Những chiến sĩ của Trung đoàn Thủ đô từng sống với thủ trưởng Độ 60 ngày đêm từ ngày 19-12-1946, nay đã vào tuổi “xưa nay hiếm” khoác trên người bộ quân phục với đầy đủ quân hàm và huân huy chương, cùng thẻ “Chiến sĩ tự vệ Thủ đô” cũng có mặt. Họ rất kiêu hãnh và tiếc thương một con người nghĩa khí. Cụ Lê Ngọc Hiền, nguyên Tham mưu truởng Sư 312, mặc quân phục với quân hàm thượng tướng, thay mặt cho gia đình đến vĩnh biệt cụ Trần Độ, người đã cùng anh mình - Tư lệnh Lê Trọng Tấn – cách đây hơn nửa thế kỷ dựng lên Đại đoàn 312 anh hùng. Khi đang đứng trong sảnh lại nghe ban tổ chức một lần nữa giới thiệu vòng hoa của cụ Văn gửi đến viếng. Mọi người sửng sốt!? Hóa ra lần trước khi đưa vòng hoa vào, ban tổ chức yêu cầu dừng lại để thay đổi nội dung (bỏ chữ “Vô cùng” và không được ghi cấp bậc của 2 vị tướng và thay bằng từ “ÔNG”). Đồng chí thư ký không chấp nhận đã điện thoại ngay cho cụ Văn. Cụ chỉ thị: giữ nguyên! Sau một hồi bàn cãi, đôi bên nhượng bộ, 2 chữ “Vô cùng” phải bỏ đi và vòng hoa viết lại với nội dung: “Thương tiếc Trung tướng Trần Độ – Đại tướng Võ Nguyên Giáp”, được đưa vào lần này(!?) . Đau quá!


 Ai đã cho ra những quy định này để bôi nhọ đất nước ta?Cảm động hơn khi nghe giới thiệu đến đoàn của Sư 312 thì thấy hơn 500 cán bộ, chiến sĩ các thời kỳ (người trong quân phục, người mặc thường phục, có những cụ phải chống nạng vì đã mất một chân, cụ ông có, cụ bà cũng có…) mang theo vòng hoa lớn: “Hội truyền thống Sư đoàn 312 tại Hà Nội kính viếng Chính uỷ Đại đoàn 312 Trần Độ”. Dòng người không dứt, họ tới để nhìn mặt thủ trưởng cũ lần cuối.Những tấm phướn đỏ với nhiều nội dung được các đoàn trực tiếp mang vào viếng. Những vòng hoa “không đúng quy định” đều được chuyển ngay ra sân sau và bóc đi dải băng đen. Chính tôi đi tìm vòng hoa của gia đình mà không thấy(!).
Đám tang của cụ Trần Độ là đám có nhiều Camera men “phục vụ” với chục máy quay vidéo kỹ thuật số, họ lởn vởn, thản nhiên quay tất cả mọi người đến viếng. Có điều, hỏi kỹ ra, họ không phải là người của gia đình, không phải là bè bạn thân thiết của người quá cố (!). Nhiều tướng lĩnh không mặc quân phục cũng có mặt, họ đến với một tình cảm của những người lính đã cùng chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc. (Nghe đâu, các cơ quan Bộ Quốc phòng đều lên lịch giao ban điều lệnh vào cả sáng nay!). Tuy vậy, khi các tướng lĩnh tại ngũ bận thì các gia đình quân nhân ở khu Lý Nam Đế, Cửa Đông, Hoàng Văn Thụ, Trần Phú, Phạm Ngũ Lão, Nam Đồng, Phan Đình Phùng… đi viếng thay đều có mặt đông đủ ! Văn nghệ sĩ các thế hệ trong và ngoài quân đội (đạo diễn, NSƯT, NSND, diễn viên, hoạ sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ, nhà thơ, nhà văn…) với một tâm hồn thật trong sáng đã đến với một nhà chính trị làm công tác văn hoá, văn nghệ nhưng rất gần gũi, rất cảm thông và luôn giúp đỡ họ. Lòng người ta là thế!Kết thúc lễ viếng, ban tổ chức đòi kiểm duyệt sổ tang(!?). Gia đình cực lực phản đối. Đúng 12 giờ 15, ban tổ chức mời các quý khách vào bên trong làm lễ truy điệu. Gia đình đứng hàng ngang về phía bên trái, 1 trung đội lính mặc quân phục xanh, đội mũ kê-pi, tay đeo băng đỏ, dàn hàng ngang trước linh cữu. Quan khách đứng đông nghịt. Mọi người nhìn lên tấm băng-rôn đen, xì xào: “Người Việt Nam ta có đạo lý “nghĩa tử là nghĩa tận”, cho dù ai có khuyết điểm cũng không bao giờ bị đối xử như vậy, chưa kể cụ Trần Độ lại là một người lính vào sinh ra tử”… Không khí lễ truy điệu rất nặng nề!Ông Vũ Mão thay mặt Văn phòng Quốc hội lên đọc điếu văn. Cả điếu văn ca ngợi cuộc đời hy sinh chiến đấu của cụ nhưng đến câu cuối cùng: “Tiếc rằng, về cuối đời, ông đã  phạm một số khuyết điểm…(Những tiếng thở dài và nấc nghẹn trong những người đưa tang)... Để tưởng nhớ đến người đ khuất… (Lại những tiếng thở dài…... chả lẽ họ chỉ coi người có công với nước như một kẻ chết dọc đường…)... chúng ta dành một phút mặc niệm!”.  
Nhạc “Chiêu hồn tử sĩ” vang lên trầm hùng. Đau đớn, thương tiếc, lưu luyến…
        Sau đó, ban tổ chức giới  thiệu anh Trần Thắng, con trưởng của cụ, đọc lời cảm tạ. Anh cảm ơn ban tổ chức tang lễ, Văn phòng Quốc hội đã đứng ra tổ chức đám tang cho cụ. Anh cảm ơn họ hàng, đồng chí đồng đội, bạn bè, Bệnh viện 108, Bệnh viện Hữu nghị đã chăm sóc và thăm hỏi trong thời gian cụ đau ốm và đến viếng, tiễn đưa cụ đến nơi an nghỉ cuối cùng. Anh dõng dạc:  
- Bố Tạ Ngọc Phách kính yêu của chúng con! Cuộc đời trong sáng, liêm khiết của bố đã là tấm gương cho chúng con học tập và giáo dục con cháu noi theo. Bố mẹ đã dạy dỗ 4 anh em chng con thành những người có ích cho xã hội. Mong bố yên giấc ngàn thu!... Về phía gia đình, chúng tôi không chấp nhận đoạn cuối của điếu văn của ban tổ chức tang lễ!
  
Lập tức có tiếng vỗ tay hưởng ứng, rồi như một đợt sóng trào tiếng vỗ tay nổi lên khắp nhà tang lễ. Lần đầu tiên trong lịch sử nước nhà trong không khí đau thương của lễ truy điệu, mọi người đã vỗ tay để tôn vinh người đã mất. Tiếng vỗ tay kéo dài đến 5 phút. Một nữ phóng viên (có lẽ của AFP) đã hỏi ngay một phụ nữ biết tiếng Pháp (sau biết là bà Ngô Bá Thành, luật sư, đại biểu Quốc hội) đứng không xa: “Vì sao trong tang lễ lại vỗ tay?”…
  
Một lão đồng chí không nén được, chỉ tay lên tấm băng-rôn nói to:
  
- Cả cuộc đời chúng tôi đi chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, để đến giờ có người lại treo tấm băng-rôn kia trong đám tang của người có công. Tại sao lại không phải là “Vô cùng thương tiếc ông Trần Độ”? Làm như vậy là phạm vào truyền thống, đạo lý của người Việt Nam. Thử hỏi bố mẹ các ông chết thì có thể treo tấm băng-rôn như thế không?
  
Ồn ào, xôn xao khắp nhà tang lễ. Có cụ nói: ”Họ đã bôi nhọ danh dự của Đảng, danh dự của Nhà nước”. Ban tổ chức phải lên loa mời gia đình lên thắp hương cho cụ lần cuối. Có cựu chiến binh ra khỏi nhà tang lễ nói: “Tiếc rằng năm 1952, tôi đã ký để cái thằng đọc điếu văn ngày hôm nay sang Trung Quốc học Thiếu sinh quân. Nó là đồ “ăn cháo đá bát”. Nó sẽ đau đớn cho đến khi chết!”. Các nhà báo nước ngoài tìm mọi cách tiếp cận những cụ quá bức xúc để phỏng vấn. Thật là đau khổ cho một cách cư xử thiếu văn hóa, thiếu đạo lý của người Việt Nam…
  
Khi đưa linh cữu ra xe, gia đình kiên quyết giữ tấm phướn “Trí dũng – Vì dàn”. Con cháu trong gia đình đã giương cao những tấm phướn của bạn bè, đồng đội ca ngợi cụ: 
+  “Trọn nghĩa nước non, Vẹn tình đồng chí – Ban Liên lạc Báo QĐND”, 
+ “Tuệ mục, tuệ tâm/ Văn nhân, Võ tướng”
+ “Kính viếng Tướng quân Trần Độ: NHÂN VĂN DANH TƯỚNG, TRUNG DŨNG VẸN TOÀN -  Ngày 9 tháng 8 năm 2002. Tập thể chí thiết kính viếng!”. Bức trướng này do cụ Lê Giản đứng đầu với danh sách của hơn 20 cựu chiến binh.
+“Kính viếng lão tướng Trần Độ: Công thần không làm phách/ Danh toại chẳng cần nhàn/ Bút thần vung mấy độ/ Đáng mặt ĐẠI NGHĨA NHÂN”.
(Xin lưu ý, tại đây ông Trần Khuê đã chơi chữ vì Phách và Độ đều là tên của người đã khuất). Mà có phải ai cũng làm được những câu đối chát chúa như thế!
Sau xe linh cữu là 2 xe quân sự Kraz chở đầy vòng hoa và lính tiêu binh. Thật tiếc là vòng hoa treo quanh thành xe bị bóc hết dải băng ghi tên người và đoàn đến viếng. Họ sợ dân chúng dọc đường cụ đi qua sẽ biết được những ai đã đến với cụ trong giờ phút cuối cùng. Đúng là cụ đã mất nhưng cụ vẫn sống mãi trong lòng đồng chí, đồng bào. Chả thế một chiến sĩ của cụ ở Đại đoàn 312 đã viết: “Đời người ta ai học hết chữ Ngờ/ Ngờ Anh chết, nhưng Anh vẫn sống!”
  
Qua các ngã ba, ngã tư đều có cảnh sát và quân cảnh bảo vệ cho đoàn xe thông suốt. Gia đình đưa cụ về 97 Trần Hưng Đạo và rước di ảnh cùng bát hương vào nhà. Bà con khối phố đứng kín hai bên đường tiễn đưa cụ với tấm lòng đầy thương tiếc và kính trọng.
  
Con đường Nam Bộ cách đây 40 năm đã đưa cụ và Bộ chỉ huy Đại đoàn 312 vào Nam chiến đấu theo đề nghị đích danh của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, hôm nay lại lưu luyến tiễn đưa cụ về nơi an nghỉ cuối cùng. Theo di chúc, cụ đề nghị được hoả táng (vì đất cho dân ở đã quá chật), sau đó đưa lên chùa. Nhưng gia đình đề nghị đưa về quê ở Tiền Hải, Thái Bình yên nghỉ cùng tổ tiên và bà chị Tạ Thị Câu– người đã hết mực thương yêu em và là người đầu tiên giác ngộ cụ theo Đảng. Cụ đã đồng ý trước khi nhắm mắt. Trưa đó, gia đình đưa cụ về Đài hóa thân hoàn vũ Văn Điển. Cả một đoàn tầu từ Nam ra đã dừng lại chờ cho cụ đi qua.
  
Linh cữu cụ được lính tiêu binh đưa từ trên xe tang vào gian vĩnh biệt. Hương khói nghi ngút. Trên cửa dẫn vào buồng hoả thiêu là tấm bảng “Vô cùng thương tiếc ông Trần Độ”. Lần lượt từng người đến nhìn mặt cụ lần cuối… Chuông đồng gióng lên những tiếng chuông vĩnh biệt! Lửa bật lên và cửa lò khép lại! Cụ đã về với Vĩnh hằng…
----------------
Trần Kiến Quốc kể thêm:                                                  
  
Sáng ấy đến đăng kí viếng.
- Bác đi theo đoàn nào?
- Gia đình Thiếu tướng Trần Tử Bình.
- Trần Tử Bình là ai?
- Bạn Đại tướng Võ Nguyên Giáp, anh ông Trần Độ.
Cả ban lễ tang ngơ ngác nhìn. Chán!

  Khi đưa ông đến Đài hóa thân Hoàn Vũ Văn Điển, vì có Lý Anh, bạn cũ cùng thời ĐHKT QS, hiện là  cán bộ phụ trách ở đây nên chạy vào trong, chuyện trò vài câu.
- Ừ, tôi biết đám cụ Độ rồi. Nghe mấy tay trên HN phi xe xuống đây trước, bảo trên kia ầm ỹ lắm. Thấy ở đây treo băng rôn: "Vô cùng thương tiếc ông Trần Độ!", họ bảo phải thay như trên nhà tang lễ ( bỏ chữ vô cùng!) . Tôi bảo:  Ở đây ai chết (dù là quan to hay dân thường, thậm chí là kẻ có tội) chúng tôi đều có câu "vô cùng thương tiếc". Còn ông nào muốn bỏ thì tự làm. Rồi chắc họ sợ...

Thứ Năm, 4 tháng 4, 2013

Đoàn Văn Vươn tự bào chữa! Hơn cả tuyệt vời.



Cuối phiên xử buổi sáng, HĐXX dành thời gian cho các bị cáo tự bào chữa cho mình.
Bị cáo Đoàn Văn Vươn nói rằng, không đồng tình với bản luận tội của đại diện VKS. Bản giám định thương tích của các bị hại chưa đưa ra chứng cứ quan trọng. Đó là, lực lượng người bị hại là lực lượng đi làm công vụ, do đó nếu họ bị tổn hại trên 21% sức lao động sẽ phải chứng thực là thương binh, còn dưới 21% là thương tật nhưng kết luận điều tra, cáo trạng không có.
Đoàn Văn Vươn khẳng định: khi nhồi thuốc vào tút đạn, Vươn đã chỉ đạo Quý không được nhồi vào loại tút đạn 8,5mm mà chỉ được nhồi vào tút đạn 2,5 – 3mm để tránh gây chết người.
Trong khi đó, vết thương giám định của các bị hại là đầu đạn 5,5mm.
Đoàn Văn Vươn khai thêm trước tòa về chi tiết, tại thời điểm xảy ra cưỡng chế có sự xuất hiện của 28 cảnh sát cơ động.
Bị cáo đã viện dẫn nhiều điều khoản trong Luật Đất đai, Luật Khiếu nại Tố cáo… phân tích QĐ cưỡng chế thu hồi đầm bãi do UBND huyện Tiên Lãng ban hành là vi hiến và trái pháp luật.
Ông Vươn cũng đề nghị HĐXX công bố bản cung, bản tường trình ngày 8-9/1/2012 do ông Vươn khai tại cơ quan điều tra.
Các bị cáo Phạm Thị Báu, Nguyễn Thị Thương phản đối bản luận tội của VKS, đồng tình với các luật sư bào chữa.
Đến 11h30 phút, luật sư Dương Văn Thành bào chữa cho các bị hại.
Hơn 12h trưa, phiên tòa buổi sáng ngày 4.4 kết thúc.

Thứ Tư, 3 tháng 4, 2013

NGHĨ VỀ PHIÊN TÒA XÉT XỬ ĐOÀN VĂN VƯƠN



Đoàn Văn Vươn không ý thức chống lại những người thi hành công vụ mà chỉ chống lại những người làm sai pháp luật để bảo vệ tài sản và tính mạng những người thân trong gia đình mình. Hành động này là chính đáng, được luật pháp bảo hộ.
Về “chủ thể”, ông Đoàn Văn Vươn là một công dân không có tiền án, tiền sự, đã từng là người lính cầm súng bảo vệ tổ quốc. Ông Đoàn Văn Vươn được pháp luật bảo hộ về “ quyền bất khả xâm phạm nhà ở, tính mạng tài sản…”. Về “khách quan”, căn cứ luật đất đai, những người thi hành lệnh cưỡng chế hoàn toàn làm sai pháp luật ( đã được thủ tướng chính phủ kết luận). Về “chủ quan”, ông Đoàn Văn Vươn không ý thức chống lại những người thi hành công vụ mà chỉ chống lại những người làm sai pháp luật để bảo vệ tài sản và tính mạng những người thân trong gia đình mình. Hành động này là chính đáng, được luật pháp bảo hộ. Bởi thế, hành động của ông Đoàn Văn Vươn và những người trong gia đình ông không có cơ sở cấu thành tội “chống thi hành công vụ”
Pháp luật phải nghiêm minh mới có tác dụng răn đe những kẻ cậy quyền cậy thế, coi pháp luật là của riêng nhà mình, tự ý ra lệnh xua những những chàng thanh niên xông vào chỗ chết, phản bội lại cha ông, làm tổn hại đến lòng tin yêu của nhân dân với Đảng Bác Hồ.
Có một điều đáng buồn là “người ta” chỉ nghĩ đến định tội danh cho ông Đoàn Văn Vươn mà không định tội danh cho những người lãnh đạo chỉ huy lực lượng xâm phạm trái pháp luật quyền bất khả xâm phạm nơi ở và cố ý hủy hoại tài sản nhà ông Vươn? Về luật, họ hoàn toàn có đủ căn cứ phạm tội! Hay họ quan niệm chỉ những thằng dân đen mới có tội?
Cuộc cưỡng chế dân bằng lực lượng vũ trang ở Cống Rộc – Tiên Lãng được một trong những nhân vật điều hành chủ chốt coi là hiệp đồng cực kỳ hay, một trận đánh đẹp, có thể viết thành sách… Một mình câu nói này tự nó đã cho thấy: Chủ trương trấn áp này đến từ đâu, cấp nào, quy mô hình thành ra sao, mức độ nghiêm trọng của sự việc trấn áp… Câu nói này toát lên hơi hướng hay linh hồn của toàn bộ công vụ cưỡng chế theo luật ở Cống Rộc – Tiên Lãng. Riêng một câu nói này, cùng với sự chấp nhận, hưởng ứng, tán thành hay biện minh, bao che… của các cộng sự, còn cho thấy mức độ sa đọa nghiêm trọng về phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức và văn hóa của những cán bộ, đảng viên có chức có quyền đã chỉ đạo hay đã nhân danh pháp luật trực tiếp thực thi công vụ này. Sự phấn khích bột phát ra từ câu nói này thật ghê sợ. Không thể không đặt ra câu hỏi: Phẩm chất đảng viên ĐCSVN như thế nào, đạo đức cán bộ là công bộc của dân ra sao nằm trong phát ngôn như vậy?
Cuộc sống cho thấy một chế độ chính trị dù là ở quốc gia nào, một khi để cho nội tình đất nước diễn biến tới mức chỉ còn nói chuyện được với nhau bằng vũ lực, dù là từ phía người dân hay từ phía chính quyền, chế độ ấy đang hướng tới giờ cáo chung.  Trong trường hợp sự kiện Đoàn Văn Vươn không được xử lý trọn vẹn, sớm muộn sẽ dẫn tới những bùng nổ nguy hiểm mới, lúc nào đó luật đời sẽ đứng ra tự xử theo cái lẽ “cùng tắc biến”. Cho dù vụ nổ súng hoa cải và mìn bình ga của Đoàn Văn Vươn rồi đây sẽ được xử đúng xử sai như thế nào, nạn nhân-tội phạm Đoàn Văn Vươn đã tự khắc tên mình vào một cột mốc trên chặng đường đau khổ đất nước đang đi hôm nay.

(Phan Tất Thành muốn các bạn cùng suy nghĩ)

Toàn văn kết luận của Thủ tướng về vụ Tiên lãng.



Sau khi nghe báo cáo tổng hợp chung của Văn phòng Chính phủ và các ý kiến phát biểu của các đại biểu dự họp, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có ý kiến kết luận như sau:
I. Những năm qua, chính sách pháp luật về đất đai có rất nhiều thay đổi. Từ năm 1987 đến nay, Luật Đất đai đã được ban hành mới 3 lần (1987, 1993, 2003) và sửa đổi 2 lần (1998, 2001). Hàng trăm văn bản dưới luật cũng được ban hành, sửa đổi nhưng vẫn còn không ít vấn đề chưa đủ rõ, thậm chí trùng chéo, mâu thuẫn.
Trình độ, năng lực cán bộ quản lý đất đai, nhất là ở cơ sở còn nhiều hạn chế trong khi đất đai đang biến động rất nhanh, văn bản pháp luật về đất đai lại rất nhiều và phức tạp, nên công tác quản lý đất đai trong cả nước còn nhiều bất cập. Nhiều vấn đề phát sinh trong quản lý và sử dụng đất đai chưa được điều chỉnh và xử lý kịp thời; khiếu kiện về đất đai chiếm trên 70% tổng số vụ khiếu kiện và có nhiều vụ việc kéo dài.
Trong những năm qua, cấp uỷ, Ủy ban nhân dân huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng đã quan tâm lãnh đạo chỉ đạo thực hiện công tác quản lý nhà nước về đất đai, không ngừng nâng cao hiệu qủa sử dụng đất nói chung và đất bồi ven biển nói riêng, góp phần phát triển KTXH khá nhanh và toàn diện, bảo đảm quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân. Đối với ông Đoàn Văn Vươn chính quyền địa phương đã giao đất, kể cả giao bổ sung phần đất lấn chiếm sau khi đã xử phạt hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho ông Vươn đầu tư tôn tạo, nuôi trồng thủy sản trên diện tích đất được giao.
Tuy nhiên, UBND huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng đã có những sai phạm trong giao đất, thu hồi đất, cưỡng chế thu hồi đất đã giao cho ông Đoàn Văn Vươn như sau:
1. Việc giao đất, thu hồi đất
- Quyết định số 447/QĐ-UB ngày 4 tháng 10 năm 1993 của Uỷ ban nhân dân huyện Tiên Lãng giao 21 ha đất cho ông Đoàn Văn Vươn là phù hợp với quy định của pháp luật đất đai tại thời điểm ban hành.
Quyết định số 220/QĐ-UB ngày 9 tháng 4 năm 1997 của Uỷ ban nhân dân huyện Tiên Lãng giao bổ sung 19,3 ha đất cho ông Đoàn Văn Vươn vào mục đích nuôi trồng thuỷ sản với thời hạn 14 năm, tính từ ngày 4 tháng 10 năm 1993 là đúng thẩm quyền và phù hợp với thực tế sử dụng đất. Tuy nhiên quyết định này không đúng với quy định của pháp luật đất đai về giao đất, cho thuê đất; về thời hạn giao đất và thời điểm tính thời hạn giao đất.
- Các Quyết định số 460/QĐ-UBND ngày 23/4/2008, Quyết định số 461/QĐ-UBND ngày 07/4/2009 của Uỷ ban nhân dân huyện Tiên Lãng thu hồi đất của ông Đoàn Văn Vươn với lý do hết thời hạn sử dụng là không đúng với quy định của Luật Đất đai 2003 và Nghị Định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai năm 2003.
2. Việc cưỡng chế thu hồi đất
Do quyết định thu hồi đất không đúng với quy định của pháp luật đất đai nên Quyết định cưỡng chế thu hồi đất cũng không đúng pháp luật. Mặt khác, việc tổ chức cưỡng chế thu hồi đất của UBND huyện Tiên Lãng cũng có nhiều thiếu sót, sai phạm.
3. Việc phá dỡ nhà của ông Đoàn Văn Vươn
Việc Lãnh đạo chính quyền địa phương chỉ đạo phá nhà của ông Đoàn Văn Vươn là có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự cần phải được khởi tố, điều tra làm rõ và xử lý nghiêm minh.
II. Thủ tướng hoan nghênh việc lãnh đạo thành phố Hải Phòng nghiêm túc kiểm điểm, nhận khuyết điểm, trách nhiệm và đã lãnh đạo, chỉ đạo cần thiết đối với vụ việc này. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu lãnh đạo thành phố Hải Phòng tiếp tục thực hiện tốt các công việc sau:
1. Chỉ đạo thu hồi các quyết định không đúng pháp luật của UBND huyện Tiên Lãng về việc thu hồi đất và cưỡng chế thu hồi đất đã giao cho ông Đoàn Văn Vươn. Xử lý các vi phạm về sử dụng đất của ông Đoàn Văn Vươn theo quy định của pháp luật và làm thủ tục cho ông Đoàn Văn Vươn sử dụng đất theo đúng quy định của Luật Đất đai. Chỉ đạo Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng và Toà án nhân dân huyện Tiên Lãng nghiêm túc kiểm điểm việc xét xử đối với vụ việc này.
2. Chỉ đạo cơ quan bảo vệ pháp luật khởi tố, điều tra và sớm đưa ra xét xử nghiêm minh theo đúng qui định của pháp luật việc phá dỡ nhà của ông Đoàn Văn Vươn. Đình chỉ công tác những cán bộ đã chỉ đạo phá dỡ nhà của ông Đoàn Văn Vươn.
3. Chỉ đạo cơ quan bảo vệ pháp luật khẩn trương đưa vụ án “giết người và chống người thi hành công vụ” ra xét xử công khai, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật. Kiến nghị các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo do các quyết định không đúng pháp luật của UBND huyện Tiên Lãng.
4. Chỉ đạo huyện Tiên Lãng và xã Vinh Quang kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm và có hình thức xử lý theo đúng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với các tổ chức, cá nhân liên quan đến những vi phạm trong việc giao đất, thu hồi đất, tổ chức cưỡng chế, phá dỡ nhà của ông Đoàn Văn Vươn.
5. Lãnh đạo thành phố Hải Phòng kiểm điểm làm rõ trách nhiệm về việc:
- Chấp thuận đề nghị cưỡng chế thu hồi đất không đúng pháp luật của UBND huyện Tiên Lãng.
- Khi vụ việc xảy ra chậm chỉ đạo làm rõ đúng sai và trách nhiệm của tập thể, cá nhân; báo cáo chưa đầy đủ - nghiêm túc với Thủ tướng Chính phủ; việc thực hiện cung cấp thông tin chưa kịp thời, thiếu chặt chẽ gây bức xúc trong dư luận.
6. Lãnh đạo thành phố Hải Phòng kiểm điểm rút kinh nghiệm sâu sắc qua vụ việc này và chỉ đạo rà soát, chấn chỉnh công tác quản lý nhà nước về đất đai, kiện toàn bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức làm công tác quản lý nhà nước về đất đai, không để xảy ra vụ việc tương tự. Sớm ổn định tình hình mọi mặt của huyện Tiên Lãng. Thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI về xây dựng Đảng, phát huy thành tựu to lớn và truyền thống tốt đẹp của thành phố Hải Phòng, tập trung lãnh đạo chỉ đạo thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2011-2015 mà Đại hội Đảng bộ thành phố đã đề ra.
Những công việc trên phải được thực hiện khẩn trương, nghiêm túc với tinh thần trách nhiệm cao và báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thực hiện.
III. Qua vụ việc cưỡng chế thu hồi đất ở xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu:
1. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trong cả nước chủ động rà soát, chấn chỉnh công tác quản lý nhà nước về đất đai, nhất là việc thu hồi và cưỡng chế thu hồi đất bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật. Đề cao trách nhiệm, tập trung giải quyết tốt các khiếu nại, tố cáo của công dân về đất đai
2. Bộ TNMT chủ trì phối hợp với các bộ ngành liên quan tiến hành rà soát, sửa đổi bổ sung các quy định về quản lý, sử dụng đất đai. Khẩn trương tiến hành tổng kết thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa IX về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai để kiến nghị sửa đổi Luật đất đai cho phù hợp với thực tế tình hình và yêu cầu phát triển mới.
3. Bộ Tư pháp nghiên cứu, đề xuất xây dựng thể chế để kiểm soát việc ban hành các quyết định hành chính của chính quyền các cấp.
4. Thủ tướng kiến nghị Chánh án Toà án nhân dân tối cao theo thẩm quyền xem xét theo thủ tục tái thẩm đối với bản án, quyết định của Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng và Toà án nhân dân huyện Tiên Lãng.
5. Thủ tướng hoan nghênh các cơ quan thông tin đại chúng đã góp phần tích cực để các cơ quan chức năng làm sáng tỏ và có sự chỉ đạo phù hợp đối với vụ việc này.
Yêu cầu các cơ quan thông tấn báo chí tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm của mình, đóng góp thiết thực hơn nữa vào việc xây dựng Đảng và bộ máy nhà nước trong sạch vững mạnh, phát huy quyền làm chủ và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân. Nghiêm túc rút kinh nghiệm, hết sức tránh việc đưa tin không khách quan, không đúng bản chất sự việc làm phương hại đến lợi ích của đất nước và người dân.
Yêu cầu Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương và các cơ quan chủ quản, tăng cường chỉ đạo, quản lý, tạo điều kiện thuận lợi cho báo chí hoạt động đúng chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia tuyên truyền định hướng dư luận xã hội; kịp thời chấn chỉnh, xử lý những vi phạm để báo chí nước ta ngày càng vững mạnh, đóng góp xứng đáng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thủ tướng hoan nghênh những ý kiến đóng góp tâm huyết, xác đáng đối với vụ việc này của các đồng chí lão thành, các chuyên gia và nhiều cán bộ, nhân dân đã gửi trực tiếp đến Thủ tướng hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và mong tiếp tục nhận được ý kiến đóng góp xây dựng đối với việc quản lý, điều hành của Chính phủ và chính quyền các cấp.
Theo Chinhphu.vn

Thứ Ba, 2 tháng 4, 2013

Thư ngỏ của ls Trịnh Minh Tân, người đã từng bào chữa cho bà Ba Sương, gửi kiểm sát viên Hải Phòng đang tiến hành tố tụng vụ án Đoàn Văn Vươn



Tôi là luật sư Trịnh Minh Tân, thuộc Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh
            Địa chỉ: 22 đường 53, phường Bình Thuận quận 7, Tp. Hồ Chí Minh
            Điện thoại: (08) 6262 4841            E-mail: lsminhtan@yahoo.com.vn
            Thưa quý ông/bà, tôi không phải là người bào chữa cho các bị cáo
trong vụ án Đoàn Văn Vươn, vì thế không biết rõ các chứng cứ buộc tội cũng như gỡ tội cho các bị cáo được thể hiện trong hồ sơ vụ án nên tôi chưa thể khẳng định những bị cáo bị truy tố có tội hay không và nếu có tội thì tội gì, mặc dù qua các phương tiện truyền thông tôi cũng có thể hình dung ra sự thật khách quan của vụ án. Nhưng để phân tích theo hướng gỡ tội hay buộc tội thì không, vì người phân tích phải nhìn thấy bản cung, nhìn thấy vật chứng và các tài liệu do các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập. Tuy nhiên, bất kỳ một luật sư nào khi đọc bản cáo trạng cũng có thể hình thành trong đầu những ý nghĩ, những lập luận bào chữa, nhưng để bào chữa thật sự như người tham gia tố tụng trong vụ án thì không thể.
            Do đó, tôi viết bức thư ngỏ này gửi tới các ông/ba kiểm sát viên không với tư cách là người hành nghề luật sư, mà với tư cách là người đã từng là kiểm sát viên, đã từng được phân công thực hành quyền công tố hàng nghìn vụ án trong thời gian xấp xỉ 30 năm công tác trong ngành kiểm sát.
            Tôi biết trong vụ án này, kiểm sát viên (KSV) thực hành quyền công tố chịu rất nhiều áp lực:
-         Áp lực từ dư luận: đòi hỏi phải có công lý thực sự với người bị truy tố;
-         Áp lực từ phía lãnh đạo, từ thành ủy: đòi hỏi KSV phải bảo vệ cho được quan điểm truy tố, qua đó chứng minh việc truy cứu trách nhiệm hình sự các bị cáo là đúng người, đúng tội.
Tôi hiểu những áp lực như vậy có sức nặng khủng khiếp đè nặng lên tâm lý KSV.
Là người tiến hành tố tụng trong vụ án cụ thể này, KSV không chỉ quan tâm đến các chứng cứ buộc tôi, mà phải rất chú ý đến các chứng cứ gỡ tội, thậm chỉ phải phủ nhận những tình tiết được coi là chứng cứ buộc tội được thu thập trong quá trình điều tra để quy kết các bị cáo phạm tội mà với hiểu biết, với tư duy pháp lý và với niềm tin nội tâm của mình, KSV xác định đó chỉ là ngụy chứng cứ.
Cái dũng của người KSV là phải đặt sự thật, lẽ phải lên trên hết. Người KSV, vì thế phải có sức đề kháng với những áp đặt mang tính chủ quan, để từ đó phân tích các khía cạnh của sự kiện pháp lý trên cơ sở khách quan, khoa học. Điều quan trọng nhất vẫn là phân tích các hành vi khách quan, ý thức chủ quan của người thực hiện hành vi bị coi là tội phạm.
Trong vụ án này, KSV không thể không phân tích các nguyên nhân dẫn đến hành vi chống đối lực lượng cưỡng chế của các bị cáo. Điều này thể hiện cụ thể ở các quyết định hành chính của cấp có thẩm quyền ban hành đã vi phạm như thế nào, đã xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân ra sao?
Tôi có một may mắn là làm việc ở một thành phố lớn, áp lực công việc cũng không hề nhẹ, nhưng tâm lý không quá nặng nề giữa cái đúng và cái sai, vì bản thân luôn được bày tỏ quan điểm, và đề xuất ý kiến nhiều khi trái với quan điểm của lãnh đạo, thậm chí được quyền rút ra khỏi vị trí là người tiến hành tố tụng khi quan điểm của mình không đồng quan điểm với lãnh đạo. Đặc biệt, khi tôi còn làm việc ở VKSND TP HCM, Thành ủy luôn tôn trọng ý kiến của cơ quan tiến hành tố tụng, không chỉ đạo cụ thể, không áp đặt phải truy tố thế nào, xét xử ra sao, chỉ yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng phải làm đúng pháp luật, đúng người, đúng tội.
Mạnh dạn bày tỏ quan điểm, đặt công lý lên trên, để sự thăng tiến chức quyền xuống dưới thì người KSV mới bảo vệ được quan điểm đúng của mình trước các áp lực.
Thời gian gần đây, báo giấy cũng như các trang mạng đề cập nhiều đến vụ án Nọc Nạn xảy ra cách đây 85 năm ở miền Tây Nam bộ. Tôi cho rằng chính quyền thực dân (Pháp) không phải vì “thương” nông dân, người đã có công khai khẩn đất hoang mà nương tay tha bổng. Điều quan trọng ở đây là chính quyền không chi phối, điều khiển hệ thống tư pháp, quan tòa được độc lập đưa ra phán quyết mà không chịu một áp lực bởi quyền lực chính trị nào. Đó là đặc điểm của bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập, nguyên tắc này tạo điều kiện cho người dân dễ tiếp cận cận được với công lý.
Viện kiểm sát nhân dân với chức năng (khi Hiến pháp 1992 chưa sửa đổi năm 2001): “Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm do luật định.”
Với chức năng nêu trên, VKS địa phương có quyền kiểm sát và kháng nghị các văn bản do HĐND và UBND ban hành trái luật. Hình thức tổ chức “quyền kiểm sát” này phù hợp với nguyên tắc tổ chức nhà nước tập quyền, với nền kinh tế kế hoạch hóa. Trong nhiều trường hợp, sự lạm quyền của cơ quan hành pháp cũng bị chế ước bởi “đèn đỏ” do VKS phát ra bằng các kháng nghị để tạm dừng thi hành các văn bản trái luật, đặc biệt là các quyết định hành chính sai gây thiệt hại cho lợi ích chung cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Điều 2 Hiến pháp 1992, sửa đổi năm 2001 quy định Nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.”
Điều 137 được sửa đổi năm 2001: “Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định.”
Kể từ khi quy định trên có hiệu lực, các văn bản của chính quyền địa phương thi nhau phạm luật mà không bị “thổi còi”, đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai. Trong khi đó thì chế định về khởi kiện hành chính còn mới mẻ và chưa hoàn thiện, người dân không có điều kiện để tiếp cận quyền khởi kiện của mình, mà nhiều khi khởi kiện thì cũng không thắng được chính quyền, do cơ chế vận hành của hệ thống tư pháp không hoàn toàn độc lập.
Trong bất kỳ một chế độ nào, nhà cầm quyền, mà cụ thể là những con người được giao quyền cũng tiềm ẩn sự lạm quyền, chỉ chờ có cơ hội là nó sẽ bung ra.
Trong bức thư ngỏ này tôi không phân tích nhiều về thể chế, nhưng chính cơ chế vận hành bộ máy công quyền có nhiều bất cập, không tương tác với thực tiễn đã gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng bởi những quyết định sai trái do chính quyền địa phương ban hành.
Nội hàm của điều 137 HP năm 1992 sửa đổi năm 2001 chỉ có thể phù hợp trong một nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập, không phù hợp trong một nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền. Nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền, nhưng cơ sở kinh tế đã có nhiều thay đổi, nền sản xuất không “kế hoạch hóa” như trước đây, mà nó vận hành theo quy luật của thị trường. Đây là sự mâu thuẫn đang tồn tại giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cần phải được hóa giải.
Vì vậy, nếu nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền thì VKS phải có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật (không chỉ là kiểm sát hoạt động tư pháp như hiện nay). Còn nếu giữ chức năng như điều 137 Hiến pháp hiện hành thì nên đổi tên VKS là Viện công tố, và tất nhiên, bộ máy nhà nước phải được tổ chức theo nguyên tắc các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp độc lập, chế ước lẫn nhau thì mới ngăn chặn được sự quá lạm của các nhánh quyền lực.
Nếu như Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001 không bỏ toàn bộ chức năng kiểm sát chung, mà giữ lại chức năng kiểm sát văn bản thì các KSV có thể không bị áp lực đè nặng như bây giờ.
Trở lại vụ án Đoàn Văn Vươn, những thiệt hại do các văn bản trái luật do UBND ban hành thì đã rõ. Đó là:
-         Thiệt hại về tài sản cho gia đình Đoàn Văn Vươn;
-         Thiệt hại về sức khỏe cho các chiến sĩ thực thi lệnh cưỡng chế.
Cả hai thiệt hại này là hệ quả của quyết định trái luật của chính quyền thành phố Hải Phòng và huyện Tiên Lãng.
Vì thế nên xem xét:
  • Miễn trách nhiệm hình sự cho Đoàn Văn Vươn và các bị cáo liên quan đến hành vi của Đoàn Văn Vươn (nếu các luật sư có đủ căn cứ chứng minh Đoàn Văn Vươn không phạm tội giết người, và chỉ dừng lại ở hành vi chống người thi hành công vụ).
  • Xử lý trách nhiệm, kể cả truy cứu trách nhiện hình sự đối với những cán bộ có trách nhiệm của thành phố Hải Phòng và huyện Tiên Lãng, gắn với việc bồi thường thiệt hại cho gia đình Đoàn Văn Vươn và những người bị thương.
  • Công nhận thương binh cho những chiến sĩ bị thương nếu họ đủ điều kiện về tỷ lệ thương tật. Điều này có vẻ khôi hài nhưng đó là pháp lý và đạo lý. Những người lính thực thi lệnh cấp trên, họ không có điều kiện và cũng không buộc phải biết là hành vi của họ vào khu đầm thi hành lệnh cưỡng chế là đúng hay sai. Bởi lẽ, đã là người lính thì phải biết “quân lệnh như sơn” (mệnh lệnh trong quân đội là dứt khoát, chỉ biết có chấp hành, ví như là quả núi, không thay đổi, lay chuyển được. Theo logic hình thức thì lệnh cấp trên đương nhiên cấp dưới phải thi hành và trong nhận thức của người lính thì họ đang thực thi nhiệm vụ được giao. Việc đúng, sai phải do người ra lệnh chịu trách nhiệm.
Khó lắm! Trong vụ án này, KSV khó có thể đo được bản lĩnh của mình.
“Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn là đức tính cần có của người kiểm sát viên.
Lịch sử tư pháp Việt Nam chắc chắn sẽ tô đậm dấu ấn vụ Đoàn Văn Vươn. Nó được tô bằng dấu son hay dấu đen còn tùy thuộc vào người tiến hành tố tụng.
Vụ Nọc Nạn cách nay 85 năm, dù là Tòa án của chế độ thực dân hà khắc, nhưng nó lại được tô đậm bằng dấu son với tinh thần: Tòa đến với dân, công lý dành cho tất cả.
Nói như vậy không có nghĩa là Tòa án nhân dân hiện nay không mang lại công lý, mà ngược lại, nhiều oan trái đã được Tòa án nhân dân minh oan. Vụ Tạ Đình Đề năm 1976 là một ví dụ.
Người dân cũng đang mong chờ phán quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng được phát ra từ những thẩm phán “phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư”
                                               
  Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 02 tháng 4 năm 2013
 Người gửi
 Luật sư Trịnh Minh Tân