Thứ Ba, 4 tháng 10, 2011

Đã đến lúc phải xóa món nợ ân oán giang hồ!

Viết nhân ngày Quốc khánh Trung quốc (1/10)

Tôi nảy ý định viết ra ý tưởng này từ lúc đọc lại bài khai bút đầu năm của anh Bút Chẳng Tà, trong đó có nhắc đến ngày Trung Cộng khởi chiến, tấn công quân đội Việt Nam Cộng hòa để xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa. Bài viết đưa lên mặt báo Bauxite Việt Namtrong khi trên trang mạng của Trung Cộng vẫn còn nhan nhản những bài chửi bới với giọng điệu của một kẻ cả vô giáo dục nhằm vào “Bọn Việt Nam vong ân bội nghĩa”, và kêu gào phải giết bọn “Việt Nam lòng lang dạ sói”, lấy máu “giặc Việt” để làm lễ tế thần cho trận chiến thu hồi Nam Sa.
Trong khi đó thì chúng ta lại vẫn thường nghe một số quan chức, và cả bạn bè, cố gắng phân trần, rằng nhân dân Việt Nam “Không bao giờ quên ơn Đảng Cộng sản và Nhà nước Trung Cộng”, làm như đây là món nợ truyền kiếp, mà người Việt chúng ta phải đời đời khắc cốt ghi xương.
Tôi được đọc khá nhiều bài viết, với lập luận rất hay rằng, với việc lợi dụng chiến tranh Việt Nam, đục nước béo cò thôn tính Hoàng Sa, rồi phát động đại quân tấn công ào ạt toàn tuyến biên giới phía bắc, Trung Cộng đã xóa xong món nợ ân nghĩa đã giúp Việt Nam trong hai cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ. Đọc xong, thú thật tôi vẫn cứ phân vân,… phải chăng là Trung Quốc đã giúp Việt Nam thật sự với tinh thần nghĩa hiệp của anh hàng xóm mang nặng trong lòng mối tình láng giềng “môi hở răng lạnh”, “tắt lửa tối đèn có nhau”… Có vị thuộc thế hệ đàn anh khả kính còn đưa thêm cứ liệu lịch sử để nói rằng Việt Nam cũng đã đưa quân sang để đánh quân đội Tưởng Giới Thạch, mở một mặt trận từ phía Nam để hỗ trợ Mao Trạch Đông trong cuộc chiến Quốc – Cộng . Và như thế cũng góp phần xóa xong cái món nợ mà Trung Cộng đã dành cho Việt Nam.
Về một mặt nào đó, tôi đôi lúc có ý tán thành quan điểm của các vị đã nêu lên những sự kiện này. Tuy nhiên, tôi lại suy nghĩ theo một hướng khác. Đúng, đã đến lúc người Việt Nam chúng ta phải nhìn nhận lại, phải thanh toán món nợ ân oán giang hồ này, xem thử chúng ta phải ôm trong lòng cái “công ơn trời biển” mà bọn đế quốc Trung Cộng đã “ban phát” cho dân Việt Nam “lòng lang dạ sói”, hay là phải nhìn thẳng vào cái bộ mặt lòng lang dạ sói của chính bọn đế quốc Trung Cộng, để từ đó chọn một con đường hành xử cho phù hợp lợi ích của dân tộc ta.
Không cần tra cứu nhiều, chẳng cần ghi cụ thể các trích dẫn như một tiểu luận khoa học, chúng tôi cho rằng, người Việt chỉ cần ở thế hệ thiếu niên trong cuộc chiến tranh Việt Nam 1954-1975, cũng đã được nghe ngày ngày những lời tuyên bố mạnh mẽ trên các phương tiện truyền thông, như, Việt Nam là tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa (XHCN). Không những vậy, thơ ca Việt Nam hồi đó cũng đã được biết đến bài thơ của Tố Hữu nhận định cái sứ mệnh cao cả của dân tộc ta là chiến đấu cho việc thực hiện lý tưởng cộng sản của Marx trên toàn thế giới: Trong bài thơ Miền Nam đưa lên mặt báo ngày 14/12/1963, Tố Hữu viết: “Ta vì ta ba chục triệu người /Cũng vì ba ngàn triệu trên đời /… và rồi… /Vui gì hơn làm người lính đi đầu /Trong đêm tối ta làm ngọn lửa”. Điều đó đã khơi dậy lòng tự hào cao cả của cả một thế hệ, bởi sự hy sinh này là vì “cuộc chiến đấu cho mục tiêu giải phóng nhân loại của phong trào cộng sản quốc tế”.
Cũng chính trong thời gian này, chúng ta không khó khăn tìm lại trên báo chí Trung Cộng, là họ đã liên tục phát động các phong trào rầm rộ chi viện Việt Nam chống Mỹ, tâng bốc Việt Nam là người lính xung kích anh hùng thời đại, với những tuyên bố rung động lòng người: “Đụng đến Việt Nam là đụng đến Trung Quốc”, và sẵn sàng đưa quân vào “kề vai sát cánh” chiến đấu bên cạnh các “đồng chí” Việt Nam… Cho đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh “cảm ơn” các “đồng chí” Quân Giải phóng Trung Cộng đã hoàn thành sứ mệnh “quốc tế vô sản cao cả”, và mời các đồng chí về nước, thì người dân Việt Nam mới tá hỏa ra, được chứng kiến, các “đồng chí” đập phá tan hoang đồ dùng mà dân Việt Nam chu cấp cho các “đồng chí” trong thời gian lưu trú. Dân Quảng Ninh, dân Hà Bắc (Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay) còn chứng kiến, cái gì không đập phá được, chẳng hạn, bể nước xi măng, chum vại,… của dân, thì các “đồng chí” đã xả hết của quý từ cái bụng “lòng lang dạ sói” của cả đoàn quân Tàu Ô cộng sản vào đó. Khi các “đồng chí” đi khỏi thôn bản rồi, thì cái của quý kia mới lan tỏa cái mùi “khai hóa cộng sản kiểu Tầu”… thối um khắp nơi. Thế mà không thấy các “đồng chí” lãnh đạo của cái hội “Bốn tốt” và “Mười sáu chữ vàng” bốc thơm cái “công ơn” ấy. Còn dân Việt Nam ở Hà Bắc thì đến nay vẫn còn nhớ, đã được thưởng thức tư cách… bốc mùi… của đạo quân Tàu Ô của giai cấp vô sản “đàn anh”, “Mười sáu chữ vàng” như thế nào!
Đã đến lúc, người “đồng chí quốc tế vô sản” Việt Nam phải tính sổ ân oán giang hồ với cái đảng “quốc tế vô sản” Đại Hán. Chính báo chí và các nhà lãnh đạo Trung Cộng đã nói rất nhiều lần, rằng người Việt Nam cầm súng chiến đấu là để bảo vệ phe XHCN và bảo vệ chính đất nước Trung Hoa và các nước thuộc “phe XHCN”, nhằm giam chân người Mỹ không cho vượt biên giới phía Nam để tấn công Trung Quốc và khối XHCN,… để Trung Quốc được sống trong an bình, phục hưng Trung Hoa thành một đế quốc cộng sản hùng mạnh, đủ sức đối đầu với Mỹ trong vai trò bá chủ thế giới.
Mấy tuần vừa qua, nhân kỷ niệm các ngày 19/8 và 2/9, chúng ta bồi hồi xem lại trên các đài VTV không khí đầy sôi động của những ngày mùa thu năm 1945. Tôi nhớ lại, khi đó bố tôi đang là một nhà giáo, ăn lương của Nhà nước Pháp, nhưng ông đã từ giã cuộc sống êm đềm và đầy tiện nghi của thành phố, nhà trường và học sinh của mình để đi vào với cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc với tất cả bầu nhiệt huyết của thanh niên Việt Nam thời đó. Tôi may mắn có cơ hội được chứng kiến một lớp người như bố tôi, cùng với bạn bè giáo giới và học trò của ông, với tư cách là những trí thức thời đó, đã hăm hở đi vào công cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc ra sao…
Nhưng rồi, cũng chính tôi đã chứng kiến, bắt đầu từ năm 1950, sau Chiến thắng biên giới với trận đánh lịch sử công phá cứ điểm Đông Khê (Cao Bằng), Việt Nam đã mở thông với một hậu phương lớn là Trung Hoa và thế giới XHCN. Kế sau đó là lúc Đảng Cộng sản Việt Nam xuất hiện trở lại với tên gọi là Đảng Lao động Việt Nam, và những tuyên bố công khai về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cuộc chiến trên đất Việt Nam từ đây chính thức mang màu sắc một cuộc chiến tranh ý thức hệ, vì một cuộc đấu tranh cho “lý tưởng vĩ đại Ai thắng Ai” trên quy mô toàn thế giới.
Dân tộc Việt Nam bị chia rẽ cũng chính từ đây. Hàng loạt người bỏ chiến khu trở về thành phố cộng tác với Chính phủ Bảo Đại. Họ nói công khai là trở về xây dựng thể chế chính trị “quốc gia” do Cựu hoàng Bảo Đại chủ xướng. Những người kháng chiến xem Chính phủ Bảo Đại là bù nhìn của Pháp, nhưng trên thực tế, ngọn cờ chủ nghĩa quốc gia của ông đã có sức lôi kéo mạnh mẽ đối với một tầng lớp đông đảo những người không ưa chính thể cộng sản, chứ không chỉ những người có ân oán với cộng sản và mang lòng hận thù chống cộng. Lịch sử đã chứng kiến, bên cạnh những vị nhân sĩ trí thức ra chiến khu đi theo Chính phủ Hồ Chí Minh kháng chiến, cũng có rất nhiều nhân sĩ nổi tiếng không nhận lời cộng tác với Chính phủ Hồ Chí Minh. Nhiều bạn bè của bố tôi nhắn lời khuyên bố tôi về cộng tác với Chính phủ Bảo Đại, nhưng bố tôi “kiên định lập trường cách mạng”, đi với kháng chiến đến cùng. Bởi vì, bố tôi cũng thuộc về phía những người không muốn từ bỏ kháng chiến quay về thành phố để bị mang tiếng là “cầu an, hưởng lạc” và “bán nước cho Pháp”. Sự chia rẽ dân tộc càng mạnh mẽ với phong trào cải cách ruộng đất, và sau đó là công cuộc cải tạo công thương nghiệp theo kiểu phi nhân tính của các nước “XHCN đàn anh”, mà đại biểu gần gũi nhất, là chính thể cộng sản Trung Hoa.
Hệ thống XHCN đã sụp đổ. Các quốc gia XHCN còn lại cũng đã từ bỏ thể chế kinh tế của Lênin, quay trở lại với hệ thống kinh tế thì trường. Nước XHCN “đàn anh” Trung Cộng đang ngày càng lộ mặt một tên đế quốc hung hãn nhất thời đại, đang ngày càng lún sâu vào con đường phát xít hóa.
Hệ thống XHCN đã tan rã, sứ mệnh Việt Nam trong vai trò “tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa” đã lùi vào lịch sử.
Chúng ta không thể nói “giá mà” với lịch sử, nhưng ta có thể lựa chọn con đường cho tương lai. Lịch sử là lịch sử, vai trò “tiền đồn” đi vào lịch sử cũng có nghĩa, những “món nợ” vì thực hiện nghĩa vụ “tiền đồn” cũng đi vào lịch sử. Tôi vừa viết bài trên Bauxite Việt Nam: Còn níu kéo gì, khi tên đế quốc cộng sản Đại Hán đã trút bỏ cái mặt nạ “anh em”, “đồng chí”? Tiếp đó là một bài viết họa theo câu ngạn ngữ Pháp Dis moi qui tu fréquentes et je te dirai qui tu es (Hãy nói cho tôi biết, anh hay qua lại với ai, tôi sẽ nói cho anh biết, anh là người thế nào).
Các bạn đừng hiểu là tôi đả kích lịch sử. Không, tôi nâng niu lịch sử của đất nước tôi, như với mọi người thân của chúng ta, chúng ta yêu cả cái dễ thương và cả cái dễ ghét của họ. Lịch sử có thể có cái sai lầm của lịch sử. Khi người ta nói Lênin đã mắc những sai lầm lịch sử, thì cũng nên nhớ rằng, một mình Lênin không thể làm nên lịch sử, mà có cả một bộ phận của xã hội bị cuốn theo Lênin… Cả một trào lưu của xã hội. Mỗi người chúng ta vừa là nạn nhân, song cũng vừa là một tội đồ của cả một trào lưu lịch sử. Chỉ có điều, chúng ta phải nhìn ra những sai lầm ấy.
Một bộ phận dân tộc Việt Nam đã lựa chọn và tự hào làm “tiền đồn” của phe XHCN. Nay hệ thống XHCN đã đi vào lịch sử, chỉ còn lại những kẻ hiếu chiến, như kiểu Trung Cộng, muốn tiếp tục sự nghiệp bành trướng của cha ông họ. Chúng ta không thể níu kéo tiếp tục cái đã đi vào lịch sử.
Hãy tỉnh táo, không mộng mị quẩn quanh với cái “tình cảm tri ân” của lịch sử. Nếu cứ nhắc nhở người Việt Nam chúng ta phải tri ân kẻ đã viện trợ cho Việt Nam để thực hiện vai trò “tiền đồn” của phe XHCN… Vậy ai sẽ đền ơn cho dân tộc Việt Nam đã đổ một núi xương biển máu để làm “tiền đồn” bảo vệ cho cái hệ thống XHCN đã vĩnh viễn đi vào lịch sử ấy?
Nói đến đây, chúng ta không thể không nói đến một nửa phía bên kia của đất nước Việt Nam. Phía ấy là Việt Nam Cộng hòa (VNCH). Phía ấy lại là một tiền đồn nữa: Tiền đồn của phe chống Cộng thế giới. Phe ấy mong muốn ngăn chặn con bài đô-mi-nô cộng sản tràn xuống Đông Nam Á, thực hiện ý đồ nhuộm đỏ phần còn lại của thế giới này. Những anh em cùng huyết thống Việt Nam trấn hai “tiền đồn” của hai bên đối địch nhau trên quy mô toàn thế giới. Tôi chưa đọc được tài liệu nào của Mỹ kể ơn đã chi viện VNCH, như Trung Quốc đã kể ơn với những người cộng sản Việt Nam. Nhưng giả dụ người Mỹ kể ơn, thì câu chuyện sẽ lại là: Vậy ai đền cho xương máu của người Việt đã đổ xuống mảnh đất “tiền đồn” cho cả hai phe?
Không. Trong Cựu ước Kinh có ghi lời Chúa: “Oeil pour oeil, dent pour dent”! Đúng, “Mắt đã được trả bằng Mắt, Răng đã được trả bằng Răng”. Thế là đủ lắm rồi. Dân tộc Việt Nam không còn nợ nần ai hết cả.
Cái gì đã là lịch sử hãy trả cho nó về với lịch sử.

theo V.C.Đ.

Bạn tôi F361 góp ý

Tôi đã từng viết về vấn đề viện trợ này rồi.
Trong kháng chiến chống Pháp, vũ khí mà Trung quốc cung cấp cho Việt Minh, thật ra là sẽ được Nga Xô cấp bù trở lại, mà vũ khí mới hơn. Ví dụ Trung quốc giao tiểu liên K50 băng tròn (mà Nga xô đã bỏ ngay sau khi cây AK-47 ra đời) thì Trung quốc được Nga xô đổi cho tiểu liên AK. Với các vũ khí cá nhân hay hạng nặng hay pháo cũng vậy. Nghĩa là Trung quốc được Nga đổi mới kho vũ khí của mình. Đã vậy khi giao cho Việt Minh, Trung quốc còn không giao đủ, chỉ 1/2 tới 2/3 số lượng. Cụ Hồ yêu cầu trang bị 10 sư đoàn bộ binh và 1 sư đoàn pháo binh hoàn chỉnh, Mao chỉ cung cấp 6 sư đoàn bộ binh cùng 1 trung đoàn cao xạ và trung đòan pháo binh thiếu. Mao sợ Viêt Minh mạnh, sẽ không nghe lời. Việc này đã được phái đòan Nga sang dự Hội thảo tổng kết Chiến dịch Điện Biên Phủ vào năm 2004 giao cho VN tài liệu gốc. Nên tại Hội thảo này, phía Trung quốc không thể kể công được. Họ đành ra về mà không được giới học giả lịch sử thế giới tôn trọng. Xong một chuyện.
Thời chống Mỹ, thì cũng vậy. Nhiều đoàn tàu hỏa chở vũ khí hiện đại (SAM 2, Mig 21, xe Zil… sau này cả SAM 3) từ Nga, Đông Âu… bị Tàu chặn lại, gây khó khăn vận chuyển, phá niêm, ăn cắp phụ tùng học lóm… Sau Nga chở bằng đường biển, nên 1972, Mỹ mới thả thủy lôi phong tòa Vịnh Bắc Bộ. Điển hình là SAM 2 của Nga thì lắp lẩn được. Còn của Trung quốc thì lắp chết, mà bắn lên là rơi đạn. Nói là phế phẩm cũng được. Máy bay Tàu J-7, J-10 bây giờ cũng thế, rụng hoài (Pakistan lãnh đũ rồi).
Rồi cái vụ thông cáo Thượng Hải 1972 đâm sau lưng Việt Nam, mà ông Lê Duẩn đã nói rồi.
Nếu so với sự viện trợ của LX cho Trung quốc từ 1930 tới 1960 thì không biết Trung quốc lấy cái gì mà trả nợ. Vây mà năm 1969 đã đánh thầy mình để giũ nợ. Việt Nam cũng phải giũ cái món nợ này mà trong lòng không việc gì phải lấn cấn hết. Vậy thì còn gì đâu mà kể lể nữa.

Nghe tin Thủ tướng đã cấm khai thác - bán khoáng sản nhưng ...

Chảy máu quặng sang Trung Quốc, xe phá nát đường, dân bức xúc chặn đường đốt xe

Mặc dù Chính phủ hô hào không xuất xuất khẩu quặng thô, nhưng mỗi năm tỉnh Lào Cai vẫn xuất khẩu từ 500 ngàn đến 1 triệu tấn quặng sắt sang Trung Quốc. Từ đầu năm 2011 đến 30/8, trên địa bàn tỉnh Lào Cai có 18 doanh nghiệp được phép khai thác khoáng sản xuất khẩu quặng sang TQ, với khối lượng 1.379.224 tấn quặng, bao gồm quặng sắt, quặng mangan, stenđồng, xỉ đuôi tuyển đồng…được khai thác tại tỉnh Lào Cai và các tỉnh lân cận. Các doanh nghiệp đua nhau móc tài nguyên, đua nhau chở quá tải phá nát những con đường, bụi bẩn ô nhiễm đã ảnh hưởng rất lớn tới đời sống người dân dọc con đường chở quặng. Kêu mãi không tới các nhà chức trách Lào Cai, ai dám tin trong số những doanh nghiệp khai thác và xuất khẩu quặng không có những “ông kễnh” đang ngồi trên những ghế quyền lực? Không chịu nổi người dân đã vần gỗ đá chặn xe, giọt nước làm tràn ly, ngày 17/9/2011 người dân thôn Cố Hải, xã Sơn Hải, huyện Bảo Thắng đã đốt xe của GĐ đoàn xe chở quặng. Mới hay, nâng thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân.
Bảo Thắng: Người dân lại chặn xe chở quặng
LCĐT – Sáng nay (18/9), nhiều người dân qua đường tò mò về sự việc chặn đường, đốt xe tại khu vực xã Sơn Hải (Bảo Thắng) dừng lại xem hiện trường khiến khu vực này vẫn khá lộn xộn.
Theo những người chứng kiến vụ việc kể lại thì khoảng 18h hôm qua (17/9), một đoàn xe chở quặng chạy trên Quốc lộ 4E đoạn qua địa phận thôn Cố Hải (xã Sơn Hải, Bảo Thắng) thì bị người dân chặn lại. Một vài chiếc rú ga lao thẳng vào những người chặn đường chạy thoát, còn lại 2 chiếc xe bị người dân bắt lùi về phía ngã ba Xuân Giao. Đến dốc Bụt (khu vực giáp ranh giữa địa phận xã Sơn Hải và Xuân Giao) thì hai chiếc xe tải dừng lại và bị người dân dùng đá chốt chặt 2 bánh xe.
Người dân khu thôn Cố Hải cho biết: Khoảng hơn một tháng kể từ sau vụ việc người dân thôn Đông Căm, xã Gia Phú chặn Quốc lộ 4E không cho xe tải trọng lớn chạy qua, lái xe chở quặng đã chuyển hướng đi từ ngã ba Xuân Giao qua đường Phố Lu rồi ngược lên Lào Cai khiến Quốc lộ 4E đoạn qua xã Sơn Hải bắt đầu bị cày nát.
Trở lại sự việc xảy ra chiều tối 17/9, tình hình trở nên nghiêm trọng hơn khi một người đàn ông bước xuống từ chiếc xe con BKS 24A – 001.06 to tiếng và xô xát với người dân. Một số người chứng kiến còn cho biết thêm: Người đàn ông này rút súng bắn chỉ thiên, sau đó dùng báng súng đánh vào đầu một thanh niên đứng gần đó (chi tiết này vẫn đang được các cơ quan chức năng điều tra làm rõ). Quá bức xúc trước hành động trên, nhiều thanh niên đã lao vào quyết “ăn thua” với người đàn ông này.
Thấy sự việc đã quá mức kiểm soát, người đàn ông này liên lạc với một chiếc xe con khác (BKS 19L – 9099) đến giải thoát. Những người chứng kiến vụ việc chưa hết bàng hoàng kể lại: Chiếc xe con BKS 19L – 9099 đi rất nhanh, thậm chí lao thẳng vào những người đi đường. Sau khi “giải cứu” được đối tượng gây xô xát với người dân, chiếc xe này phóng thẳng về hướng Phố Lu.
Nhận được tin báo của nhân dân, các lực lượng chức năng đã có mặt, nhưng do quá bức xúc và không có câu trả lời thỏa đáng, người dân vẫn không giải tán. Đến 1h sáng 18/9, một số người dân đã đốt cháy chiếc xe con BKS 24A – 001.06.
Vụ việc xảy ra ngay trên tuyến giao thông chính, vì vậy khi lượng người và phương tiện lưu thông trên tuyến tăng dần cũng là lúc tình hình tắc nghẽn xảy ra ngày càng nghiêm trọng.
Trưởng thôn Cố Hải – ông Lưu Văn Quyết cho biết: Tình hình an ninh, trật tự ở thôn nhiều năm nay đều rất ổn định. Những ngày gần đây, do xe quặng quá tải chạy phá đường nên nhiều hộ đã vứt gạch đá ra đường nhưng sau khi thôn họp dân đã chấm dứt được tình trạng này. Sự việc xảy ra tối 17/9 không chỉ có người dân thôn Cố Hải (xã Sơn Hải), mà còn có rất nhiều người dân đến từ các địa bàn lân cận tham gia.
Vụ việc đang tiếp tục được các cơ quan chức năng điều tra, làm rõ.
Nhóm PV Thời sự   
Nguồn:http://www.pagewash.com/nph-index.cgi/000010A/uggc:/=2fonbynbpnv.ia/Vaqrk.nfc=3fgnovq=3d10&PngrtbevrfVQ=3d159&ArjfVQ=3d52887

Sao lại phải thế này ???

Theo bản tin TTXVN phát đi ngày chủ nhật ngày 4/9/2011, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 66 Quốc khánh Việt Nam, lãnh đạo nhiều nước đã gửi điện chúc mừng tới lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam; riêng Trung Quốc thì không có ý kiến, ý cò…gì? Chắc lãnh đạo Trung Quốc cú dân Hà Nội biểu tình hô đả đảo Trung Quốc ???

Xin mời quý đọc nguyên văn bản tin TTXVN sau đây:

Lãnh đạo các nước điện mừng Quốc khánh Việt Nam

Cập nhật lúc 22:34, Chủ Nhật, 04/09/2011 (GMT+7) 

 Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 66 Quốc khánh Việt Nam ( 2-9), các lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Quốc hội Việt Nam đã nhận được điện mừng của  các vị lãnh đạo các nước.

Đó là điện mừng của Tổng thống Liên bang Nga Dmitry Medvedev và Thủ tướng Chính phủ Liên bang Nga Vladimir Putin; Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ Barack Obama; Quốc vương Bruney Hassanal Bolkiah; Quốc vương Thái Lan Bhumibol Adulyadej.

Chủ tịch Ủy ban thường vụ Hội nghị Nhân dân tối cao nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Kim Yong Nam, Thủ tướng Nội các nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Choe Yong Rim; Vua Nhật Bản Akihito; Tổng thống Đại Hàn Dân Quốc Lee Myung Bak và cũng gửi điện mừng đến cácvị lãnh đạo Việt Nam.

Cũng nhân dịp này, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã nhận được điện mừng của Bộ trưởng Ngoại giao Triều Tiên Pak Ui Chun, Bộ trưởng Ngoại giao Liên bang Nga Sergey Lavrov.

Theo TTXVN

Trên Hà nội mới có bài

Kỷ niệm 62 năm Quốc khánh Trung Quốc 
01/10/2011 06:32

(HNM) - Ngày 30-9 tại Hà Nội, Liên hiệp Các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Hội hữu nghị Việt - Trung đã tổ chức cuộc gặp gỡ kỷ niệm 62 năm Quốc khánh Trung Quốc (1/10/1949 - 1/10/2011).

Tại buổi lễ, Chủ tịch Hội hữu nghị Việt - Trung Đoàn Mạnh Giao đã chúc mừng những thành tựu to lớn mà nhân dân Trung Quốc đã giành được trong công cuộc xây dựng đất nước. Cũng trong hơn 6 thập kỷ qua, sự gần gũi về địa lý và lịch sử truyền thống đã là tiền đề quan trọng để nhân dân hai nước Việt - Trung xây đắp mối quan hệ truyền thống tốt đẹp.

Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam Khổng Huyễn Hựu nhấn mạnh, việc thúc đẩy tình hữu nghị song phương chính là nhằm khích lệ, cổ vũ lẫn nhau góp phần đẩy mạnh quan hệ láng giềng, hợp tác toàn diện Trung Quốc - Việt Nam phát triển bền vững, lành mạnh, ổn định và cùng có lợi trong thời gian tới.

Vân Khanh

Một năm ngày thảm hoạ bùn đỏ ở Hung ga ri

Về Báo cáo số 91/BC-CP ngày 22-5-2009 của Chính phủ gửi Quốc hội

Thái Văn Cầu

Vào tháng 5 – 2009, ngay sau khi Bộ Công thương trình bày báo cáo triển khai dự án khai thác Bauxite ở Tây Nguyên trước Quốc hội Việt Nam, bất chấp Kiến nghị của hàng nghìn trí thức, lão thành cách mạng và các tầng lớp nhân dân trong ngoài nước, kể cả ba lá thư tâm huyết của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhiều chuyên gia trong các lĩnh vực khai khoáng, kinh tế, xã hội, môi trường, an ninh quốc phòng… đã lên tiếng nghiêm túc trên các phương tiện thông tin đại chúng về cái lợi cái hại của Dự án này. Xem lại một lượt những bài viết đó, chúng tôi thấy đến nay, hết thảy  đều vẫn còn nóng hổi ý nghĩa thời sự. Chỉ tiếc trong thời điểm các bài viết này ra đời, không kể một số phản ứng hung hăng như kiểu ông Lê Dương Quang, nhiều người có chức có quyền khác  – và cố nhiên là cao hơn ông Quang nhiều – đều thống nhất với nhau ở một “phản ứng bịt tai” nên những tiếng nói chân tình này đã không lọt được vào tai họ mà vọng vào thinh không, nên mới ra nông nỗi hôm nay. Để bạn đọc ngẫm nghĩ tiếp về một biện pháp thực tế nhất hiện nay đối với vấn đề khai thác bauxite ở Tây Nguyên nên như thế nào là tốt, BVN xin đăng lại một trong những bài viết cũ của khoa học gia Thái Văn Cầu đã từng đăng trên trang Bauxitevietnam.info (lúc bấy giờ vẫn còn là trang mạng của chúng tôi chứ chưa bị cưỡng đoạt đưa về Hongkong, khoác cho một chiếc áo mới và thay đổi nội dung  ngược hẳn với quan điểm của người sáng lập như hiện nay), sau đó được loan tải trên nhiều mạng khác. Chúng tôi mượn bài này từ trang vietsciences.free.fr
Bauxite Việt Nam
Chúng ta đang sống trong thời đại tin học: Một bản tin nhỏ nhưng đáng quan tâm xảy ra ở Lũng Cú (Hà Giang) có thể được toàn thế giới biết đến trong vòng vài phút.
Hơn 40% dân số các thành phố lớn của Việt Nam truy cập internet; thời gian bình quân sử dụng internet mỗi ngày tăng gấp đôi từ năm 20061. Những dữ kiện này cho thấy nhân dân Việt Nam đi đúng với trào lưu quốc tế: khao khát thông tin. Quan trọng hơn: thông tin không còn là độc quyền của một riêng ai!
Ngày 22/5/2009, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công thương gửi báo cáo chính thức về dự án bô-xít, báo cáo số 91/BC-CP, đến Quốc hội. Báo cáo dài hơn 10 trang. Sau đây chúng tôi đề cập đến 4 điểm then chốt trong báo cáo.
Môi trường sinh thái:
Theo báo cáo:
Khai thác và chế biến bô-xít Tây Nguyên không thể tránh khỏi gây ra những tác động môi trường nhất định, tuy nhiên kinh nghiệm thực tế của thế giới cho thấy những tác động môi trường này hoàn toàn có thể kiểm soát và không chế tới mức an toàn cần thiết, vấn đề quan trọng là cần tăng cường công tác quản lý, kiểm tra và giám sát các giải pháp bảo vệ môi trường ngay trong quá trình xây dựng cũng như trong suốt quá trình vận hành các dự án alumin.
Ý kiến của chúng tôi:
Có một khác biệt lớn lao giữa “kinh nghiệm thực tế của thế giới” và những gì đang và sẽ xảy ra cho Tây Nguyên, nếu dự án bô-xít tiếp tục tiến hành.
Chọn công nghệ ướt – công nghệ sở trường của doanh nghiệp Trung Quốc – trong khai thác và chế biến bô-xít đồng nghĩa với chọn con đường dẫn đến tác hại lớn nhất cho môi trường sinh thái Tây Nguyên, như các nhà khoa học Nguyễn Thành Sơn, Nguyễn Đình Hòe, Đặng Đình Cung, Lê Quốc Trinh, v.v. đề cập.
Bản sắc khu vực:
Theo báo cáo:
Sự hình thành cụm kinh tế công nghiệp bô-xít – alumin trong khu vực sẽ kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế dịch vụ như giao thông vận tải, cơ khí, xây dựng, phát triển đô thị, thương mại, khách sạn và du kịch, vui chơi giải trí, dịch vụ ăn uống… Đây là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực từ thuần nông lâm nghiệp sang kinh tế đa ngành nghề, trong đó công nghiệp – dịch vụ là thành phần kinh tế cơ bản.
Hoạt động khai thác bô-xít và sản xuất alumin sẽ tạo ra những cộng đồng dân cư mới, những đô thị mới. Tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn con em dân tộc địa phương, nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần ổn định tình hình an ninh-chính trị trên địa bàn khu vực Tây Nguyên.
Ý kiến của chúng tôi:
Đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, trải qua bao cuộc biển dâu trong hơn 100 năm qua, vẫn cố giữ bản sắc khu vực vì họ còn đất-nước-rừng và văn hóa. Một khi môi trường sinh thái bị hủy hoại, làm ảnh hưởng đến đất-nước-rừng, và văn hóa cổ truyền bị tác động do chính sách phát triển nông cạn, thiếu tầm chiến lược, bản sắc Tây Nguyên sẽ trở thành câu chuyện của quá khứ.
Sai lầm của dự án xây khách sạn trong công viên Thống Nhất có thể khiến nhà nước thiệt mất hơn 14 triệu USD2; sai lầm dẫn đến cái chết của bản sắc Tây Nguyên là lời nguyền mà chúng ta và các thế hệ tương lai phải gánh chịu!
Bằng trí tuệ và sức lao động, chúng ta có thể mang về cho đất nước 14 triệu USD; nhưng không có sức lao động hay trí tuệ nào có thể làm hồi sinh bản sắc Tây Nguyên một khi nó biến mất!
An ninh quốc phòng:
Theo báo cáo:
Như vậy có thể khẳng định rằng 2 dự án bô-xít Tân Rai và Nhân Cơ do một doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam tự đầu tư trên địa bàn Tây Nguyên, đã được địa phương và các bộ, ngành liên quan thỏa thuận về vị trí, địa điểm (trong đó có liên quan đến an ninh, quốc phòng) đáp ứng các yêu cầu về an ninh, quốc phòng quốc gia và khu vực. Tuy nhiên, trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương và chủ đầu tư thời gian tới là phải phối hợp chặt chẽ, hiệu quả trong việc quản lý, giám sát  hoạt động của nhà thầu cũng như việc quản lý lao động nước ngoài, phù hợp với các quy định của hợp đồng EPC nói riêng và luật pháp Việt Nam nói chung.
Ý kiến của chúng tôi:
Trong thời đại tin học, an ninh quốc phòng trở nên cực kỳ phức tạp. Nó bao gồm cả thế giới thực: an ninh quốc phòng trên không, trên biển và trên đất liền, và thế giới ảo: an ninh quốc phòng trên mạng.
Nhiều bản tin gần đây cho thấy về mặt an ninh quốc phòng, Việt Nam đang đương đầu với một thách thức lớn: Điển hình là vấn đề hàng chục ngàn người lao động từ một nước ngoài vào làm việc mà không ai kiểm soát; vấn đề trang website của Bộ Công thương nhưng lại để nước ngoài ấy quản lý trong 3 năm qua và để họ tự do phổ biến tin tức bất lợi cho Việt Nam; vấn đề ngư dân đánh cá trong vùng biển Việt Nam bị tàu chiến của chính nước ngoài trên đánh chìm, v.v.  (Xem thêm trong phần phụ chú) 3.
Tây Nguyên là nóc nhà của Việt Nam; biển Đông là cửa ngõ ra biển lớn của Việt Nam. An ninh quốc phòng có còn không khi thế lực không thân thiện của nước ngoài hiện diện cả trước mặt và sau lưng chúng ta ?
Hiệu quả kinh tế:
Theo báo cáo:
Nhiều ý kiến góp ý tỏ ra nghi ngại về kết quả tính toán hiệu quả kinh tế của TKV đối với 2 dự án đã được phân tích, tính toán và cập nhật theo tình hình mới, tính toán đầy đủ các chi phí; kết quả cho thấy dự án Tân Rai và Nhân Cơ với phương thức vận tải bằng ô tô trong giai đoạn đầu là có hiệu quả kinh tế: giá trị hiện tại thực (NPV) là 1.477 tỷ đồng (Tân Rai) và 1.010 tỷ đồng (Nhân Cơ); tỷ lệ hoàn vốn nội tại (IRRR) là 11,4% (Tân Rai) và 10,6% (Nhân Cơ). Đây là các chỉ tiêu có thể chấp nhận được; hơn nữa, phần tài chính của dự án đã được các tổ chức tín dụng thẩm định và đồng ý cho chủ đầu tư vay (khoảng 70% tổng vốn đầu tư). Khi chuyển sang phương thức vận tải đường sắt thì các dự án trên sẽ có hiệu quả kinh tế cao hơn ( vì chi phí vận tải đường sắt rẻ hơn so với vận tải ô tô), thời gian thu hồi vốn khoảng 13 năm, những năm đầu của dự án có một số năm lỗ (lỗ kế hoạch), tuy nhiên đánh giá cả đời dự án là có hiệu quả kinh tế.
….
Giá nhôm trên thị trường hiện nay đang ở mức giá sàn rất thấp (1.426 USD/tấn, giá giao 3 tháng), giảm khoảng 70% so với giá nhôm thời kỳ 2006-2007. Giá alumin cũng tương ứng giảm theo làm ảnh hưởng đến hiệu quả của dự án. Tuy nhiên, các dự án alumin Tây Nguyên đều có tuổi đời dự án trên 50 năm, vì vậy, hiệu quả kinh tế của dự án được tính toán dựa trên cơ sở dự báo, phân tích và lựa chọn giá bán alumin bình quân cho cả giai đoạn tồn tại của dự án 362 USD/tấn là phù hợp quy định. Ngoài ra, cần lưu ý đến yếu tố mang tính quy luật của thị trường kim loại thế giới – đó là giá cả diễn biến có tính chu kỳ, sau một chu kỳ giảm sẽ tiếp đến chu kỳ tăng. Về nhu cầu, xu hướng gia tăng sử dụng nhôm kim loại trên thế giới sẽ vẫn tiếp tục chưa có loại vật liệu mới nào thay thế hoàn toàn được nhôm, ngược lại nhôm và hợp kim nhôm đang dần thế chỗ cho thép và các loại vật liệu truyền thống trong rất nhiều ngành, vì thế nhu cầu về nhôm sẽ còn tiếp tục duy trì và gia tăng trong nhiều năm tới.
Ý kiến của chúng tôi:
Các báo cáo khả thi hiện có vạch rõ hai điểm sau:
- do chất lượng bô-xít của Việt Nam thuộc loại thấp, phí tổn khai thác và chế biến bô-xít tăng cao hơn bình thường so với doanh nghiệp các nước khác; lợi nhuận (nếu có) và sức cạnh tranh của bô-xít Việt Nam sẽ giảm;
- nhiều doanh nghiệp khai thác và chế biến bô-xít Trung Quốc, với kinh nghiệm dày dặn, trong hơn 5 năm qua phải đóng cửa vì không chịu nổi sức cạnh tranh và sự bấp bênh trong giá cả trên thị trường thế giới.
Trong khi dự án bô-xít có thể mang đến những tiện ích nhất thời cho Tây Nguyên qua kiến trúc hạ tầng cơ sở, công việc làm, v.v., hai yếu tố khách quan trên khiến tính khả thi kinh tế của toàn dự án nghiêng hẳn về một bên: bất lợi nhiều hơn thuận lợi!
Báo cáo ngày 22/5/2009 của Bộ Công thương không nhắc đến một chi tiết quan trọng liên quan đến dự án khai thác và chế biến bô-xít Tây Nguyên. Đó là Thông cáo chung giữa hai nước nhân chuyến viếng thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh vào tháng 12 năm 2001 và tháng 5 năm 2008.
Thông cáo chung năm 2001 nói:
Nhân dịp này, hai bên đã ký Hiệp định khung giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về việc Trung Quốc cung cấp cho Việt Nam khoản tín dụng ưu đãi và Hiệp định hợp tác kinh tế kỹ thuật giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa; và nhất trí sẽ tích cực thúc đẩy các doanh nghiệp hợp tác lâu dài trên dự án bô-xít nhôm Đắc Nông.
Thông cáo chung năm 2008 nói:
Hai bên tích cực ủng hộ và thúc đẩy các doanh nghiệp của hai nước hợp tác lâu dài cùng có lợi trong các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, công nghiệp chế tạo, phát triển nguồn nhân lực, năng lượng, chế biến khoáng sản và các lĩnh vực quan trọng khác. Hai bên tăng cuờng hợp tác trong các dự án như: Bôxit Đắc Nông, các dự án trong khuôn khổ “Hai hành lang, một vành đai kinh tế” và các dự án lớn khác.
Theo Báo cáo của Bộ Công thương:
Dự án đã được Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư tại công văn số 303/CP-CN ngày 29 tháng 3 năm 2000; Báo cáo nghiên cứu khả thi được Thủ tướng Chính phủ thông qua năm 2005 (công văn số 808/TTg-CN ngày 17 tháng 6 năm 2005). Chủ đầu tư (Tập đoàn TKV) đã ký hợp đồng thực hiện gói thầu thiết kế-mua sắm-xây dựng và đào tạo (EPC) nhà máy alumin với nhà thầu CHALIECO (Trung Quốc) thông qua đấu thầu quốc tế công khai, gói thầu đã được khởi công ngày 26 tháng 7 năm 2008.
Từ báo chí ghi nhận được:
Ông Bùi Quang Tiến, Tổng Giám đốc VNAC, cho biết dự án Nhà máy sản xuất alumin Nhân Cơ đã được khởi động đầu tư từ cuối năm 2005 với công suất dự kiến lúc đó là 100.000 tấn alumin/năm (tương đương 250.000 tấn quặng tinh/năm). Các hồ sơ dự thầu lúc ấy không đáp ứng yêu cầu và xét thấy hiệu quả kinh tế không có nên chủ đầu tư kiến nghị và được Thủ tướng cho phép điều chỉnh nâng công suất lên 300.000 tấn alumin/năm.
Tuy nhiên, kết quả đấu thầu lần thứ hai cũng không chọn được nhà thầu và tính toán lại hiệu quả kinh tế nên chủ đầu tư một lần nữa kiến nghị và được Thủ tướng cho phép điều chỉnh công suất lên mức 600.000 tấn/năm vào đầu tháng 5-2008. Lần này chủ đầu tư không tổ chức đấu thầu mà được Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải cho phép TKV chỉ định Công ty TNHH Công trình quốc tế nhôm Trung Quốc (Chalieco) – nhà thầu chính dự án bôxit Tân Rai – thực hiện gói thầu Nhà máy alumin Nhân Cơ.4
Tuy báo cáo của Bộ Công thương nói, “thông qua đấu thầu quốc tế công khai”, Nhà nước Việt Nam, qua Phó Thủ tướng Chính phủ và chủ đầu tư, Tập đoàn TKV, tự ý để doanh nghiệp Trung Quốc tham gia vào dự án bô-xít. Điều này phù hợp với cam kết trong hai Thông cáo chung giữa hai Đảng CS Việt Nam và Trung Quốc nêu trên.
Cần ghi nhận là vào thời điểm của Thông cáo chung năm 2001, chưa hề có báo cáo tiền khả thi nào về dự án khai thác và chế biến bô-xít được thực hiện.
Theo quyết định số 167/2007/QĐ-TTg do Thủ tướng Chính phủ ký ngày 1/11/2007, giá trị cho toàn dự án bô-xít, giai đoạn 2007-2025 lên đến khoảng 11,8-15,6 tỷ USD. Đây là một số vốn đầu tư kếch xù!
Vì cam kết quốc tế thiếu suy xét, vì lợi nhuận cá nhân, sẽ có nhiều động cơ thúc đẩy để dự án khai thác và chế biến bô-xít Tây Nguyên được tiếp tục tiến hành theo như ý mong muốn ban đầu của thế lực nước ngoài.
Vì mục đích bảo toàn môi trường sinh thái, bản sắc khu vực và an ninh quốc phòng, vì sự an nguy của Tổ quốc, những người Việt Nam yêu nước không thể giữ mãi sự im lặng cố hữu.
Dựa trên đề nghị của các bậc lão thành cách mạng và dựa trên báo cáo của các nhà khoa học và nghiên cứu, chúng tôi xin được lặp lại quan điểm của chúng tôi:
a) Yêu cầu Chính phủ cho ngưng toàn bộ dự án khai thác bauxite, sản xuất alumin hiện đang có với mọi đối tác: Australia, Nga, Trung Quốc, v.v. tại đây cũng như mọi nơi khác trên lãnh thổ chúng ta. Hãy để cho thế hệ sau, 25 – 30 năm nữa, với trình độ kỹ thuật cao hơn, trở lại xem xét khả năng khai thác bauxite, sản xuất alumin;
b) Thành lập một Ủy ban nghiên cứu đường hướng phát triển kinh tế cho Tây Nguyên với sự hợp tác của nhiều lãnh vực chuyên môn và giữa các nhà trí thức trong và ngoài nước.
Cùng với sự phát triển của nền kỹ nghệ tin học, trình độ nắm vững thông tin của nhân dân Việt Nam năm 2009 vượt xa so với các thế hệ trước. Tinh thần yêu nước kết hợp với tri thức là một sức mạnh Tổ quốc cần trong quá trình giữ nước và xây dựng nước.
Dân tộc Việt Nam mong muốn chung sống hòa bình và hữu nghị với mọi nước, gần cũng như xa. Nhưng dân tộc Việt Nam quyết không bao giờ để cho một thế lực nào, bên ngoài cũng như bên trong Việt Nam, làm tổn hại đến quyền lợi của đất nước Việt Nam.
Lịch sử 4000 năm của Việt Nam là một minh chứng hùng hồn cho quyết tâm này.
Khoa học gia TVC
HC Mạng Bauxite Việt Nam biên tập
Phụ chú:
1. http://vovnews.vn/Home/Xu-huong-su-dung-Internet-tai-Viet-Nam/20094/108798.vov
2. http://vietnamnet.vn/chinhtri/2009/04/841937/
3.
Về lao động nước ngoài:
http://tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=308402&ChannelID=3
Về website của Bộ Công thương do TQ quản lý 3 năm nay:
http://nhipsongso.tuoitre.com.vn/Index.aspx?ArticleID=316337&ChannelID=16
Về tàu ngư dân Việt Nam bị đánh chìm. Website của Bộ Công thương do TQ quản lý gần đây có thông tin về sự điều động tàu chiến Ngư Chính đến vùng biển Hoàng Sa.
Tàu chiến Ngư Chính 44183 vừa được điều động đến vùng biển Hoàng Sa ngày 19/5/2009 đã tham gia ngay vào hành động đánh chìm tàu ngư dân Việt Nam:
http://www.laodong.com.vn/Utilities/PrintView.aspx?ID=139271
http://www.laodong.com.vn/Home/Cuu-26-ngu-dan-bi-tau-nuoc-ngoai-dam-chim-tren-bien-Dong/20095/139253.laodong
Website của TQ nói về hành động tàu chiến Ngư Chính 44183 đánh chìm tàu ngư dân Việt Nam:
http://www.chinanews.com.cn/gn/news/2009/05-25/1707131.shtml
Một góc cạnh của mối quan hệ:
http://bauxitevietnam.info/tulieu/090507_suthatquanhevntq.htm
4. http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/PrintView.aspx?ArticleID=315320&ChannelID=17


Anh hùng Lê Mã Lương: “Trung Quốc sẽ nhận một bài học xác đáng”

– Đó là nhận định của Thiếu tướng, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (LLVTND) Lê Mã Lương, người nổi tiếng với câu nói “Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến chống quân thù…” khi trao đổi với báo GDVN về vấn đề biển đảo của dân tộc.
Bản chất của Trung Quốc là “khát đất, khát nước”
Là người từng nghiên cứu lịch sử và có những đóng góp quan trọng vào công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, ông có suy nghĩ gì khi Trung Quốc đang có những hoạt động gây hấn, đe dọa đến chủ quyền biển đảo của Việt Nam?
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Trung Quốc là một người bạn, một người hàng xóm vĩ đại của dân tộc ta. Đó là điều đã được lịch sử thừa nhận. Thế hệ chúng tôi không bao giờ quên ơn những đóng góp, ủng hộ của họ, đứng đầu là Đảng và Chính phủ Trung Quốc.
Tuy nhiên, từ năm 1979 – 1986, tranh chấp biên giới Việt – Trung liên tục xảy ra. 6 năm liền, tôi chỉ huy binh đoàn chiến đấu từ Quảng Ninh, Lạng Sơn rồi tới Hà Giang, Tuyên Quang, 2 năm liền cầm súng trực tiếp chiến đấu ở Vị Xuyên (Hà Giang). Sau khi đất liền tạm ổn, từ năm 1986, vấn đề biển Đông lại dội lên. Tất cả những điều đó khiến tôi không lạ gì bản chất của người Trung Quốc.
Bản chất của họ là “khát đất” và “khát nước”. Để có “đất” và “nước”, mỗi một ngày thêm một tấc đất liền, mỗi một ngày thêm một thước nước biển, người Trung Quốc không có cách nào khác là phải bành trướng.
Tôi ở sát biên giới 6 năm, ban đầu rất ngạc nhiên bởi hành động của những người dân Trung Quốc. Mỗi ngày, người ta trồng một cây ngô, một cây đậu, một cây khoai… để lấn được sang đất ViệtNam. Nhưng càng về sau, càng ngẫm nghĩ thì càng hiểu ra rằng: hành động đó xuất phát từ tư tưởng bành trướng đã ăn sâu vào suy nghĩ của người Trung Quốc từ thế hệ nọ tới thế hệ kia.
Vì vậy, sự kiện tàu quân sự của Trung Quốc ngụy trang thành tàu dân sự, cắt cáp tàu Bình Minh và Viking 2 của Việt Nam đã không khiến tôi bất ngờ. Đó là hành động của một kẻ cướp biển, là biểu hiện của tư tưởng “khát đất” và “khát nước”. “Khát” đến không còn giới hạn, không còn tôn trọng luật pháp quốc tế.
Theo ông, những hành động vừa qua của Trung Quốc chỉ là một bước đi trong chiến lược bành trướng lâu dài đã được vạch sẵn?
Đúng vậy. Việc khống chế biển Đông nằm trong chiến lược, ý đồ lâu dài của Trung Quốc, không đơn thuần là vấn đề dầu mỏ, khí đốt mà còn là vấn đề gây áp lực lên các nước Đông Nam Á và giảm bớt ảnh hưởng của Mỹ đối với khu vực này.
Tuy nhiên, đó là điều Trung Quốc không thể làm được. Thứ nhất, vấn đề lịch sử biển Đông của Trung Quốc nêu ra với thế giới là không có sức thuyết phục đối với những ai quan tâm đến biển và hiểu luật biển trên thế giới.

Trong bài thơ Gửi miềnNamcủa nhà thơ Tố Hữu có câu: “Đẹp biết mấy bài ca ra trận – Mỗi chàng trai, một Lê Mã Lương” để nói về ông. Năm 17 tuổi, anh đã từ chối ước mơ vào giảng đường Đại học Tổng hợp Hà Nội và giấy báo du học nước ngoài để lên đường vào Nam đánh Mỹ. 18 tuổi anh bị thương lần đầu tiên, rất nặng, hỏng một mắt.
21 tuổi Trung uý Lê Mã Lương được tuyên dương Anh hùng quân đội; tháng 7/1968 anh được gặp Bác Hồ tại Quân y viện 108. Sau ngày miềnNamgiải phóng, anh học tiếp khoa Sử ĐHTH Hà Nội mà năm xưa bỏ dở và làm luôn luận án Tiến sĩ. Giữa năm 1998, anh có quyết định làm Giám đốc Bảo tàng Lịch sử quân sự ViệtNam.
Anh hùng LLVTND (tiền thân là các danh hiệu Anh hùng quân đội và Anh hùng LLVT giải phóng miền Nam) là danh hiệu vinh dự cao nhất của Nhà nước phong tặng cho đơn vị và phong tặng hay truy tặng cho cá nhân trong các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đã lập được “thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và công tác, tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân”.

Thứ hai, tham vọng của Trung Quốc là muốn đàm phán song phương với từng nước có xung đột. Nhưng tất cả các các nước trong khối ASEAN như Philippin, ViệtNam,Malaysia… thừa hiểu, nếu như đoàn kết lại thì buộc Trung Quốc phải điều chỉnh chiến lược biển Đông của mình. Hơn nữa, không chỉ có Mỹ mà các nước khác trên thế giới như Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản… sẽ đều ủng hộ các nước ASEAN để bảo vệ công lý, bảo vệ luật biển quốc tế.
Vừa qua, có một số người hỏi ý kiến tôi: “Trung Quốc sẽ “đánh” ai trước? ViệtNamhay Philippin?”. Tôi có thể trả lời quả quyết: Trung Quốc không thể đánh ai trước, đánh ai sau cả. Bởi Trung Quốc không thể làm được điều ấy!
Vậy ông nghĩ sao khi một tướng Trung Quốc mạnh miệng tuyên bố sẽ “dạy Việt Nam một bài học lớn hơn”?
Đó là phát ngôn của một kẻ ngông cuồng và thiếu hiểu biết, đồng thời thể hiện rất rõ bản chất võ biền, liều lĩnh của một bộ phận người Trung Quốc.
Hiện nay, tình hình đã khác. Sau năm 1975, sau chiến tranh biên giới Tây Nam với Campuchia, sau chiến tranh biên giới phía Bắc với Trung Quốc… thế giới đã hiểu tranh chấp biển Đông  như thế nào, cái vô lý của Trung Quốc như thế nào. Hơn nữa, nếu như Trung Quốc tiếp tục làm căng vấn đề biển Đông thì nội bộ của Trung Quốc chuẩn bị cho Đại hội Đảng XVIII sẽ có nhiều vấn đề.


Không phải người lãnh đạo nào của Trung Quốc cũng đồng ý với những chính sách đe dọa đến hòa bình và tình hữu nghị giữa hai dân tộc.
Vừa qua, việc Trung Quốc tạm hoãn hạ thủy tàu sân bay cho thấy, Trung Quốc đang tự nhận ra mình đã đi một bước sai lầm, đã quá đà ở vấn đề biển Đông. Uy tín của họ trên trường quốc tế đang bị giảm sút nặng nề. Nếu để xảy ra “lình xình” lớn hơn, thế giới tiếp tục lên án, ViệtNamvà Asean tiếp tục có những động thái mạnh mẽ… thì Trung Quốc sẽ nhận được một bài học xác đáng.

“Trung Quốc lùi một bước để tiến hai bước”
Trung Quốc tự nhận ra mình đã đi một bước sai lầm, đã quá đà ở vấn đề biển Đông? Liệu rằng, Trung Quốc sẽ bớt hung hăng hơn tại biển Đông? 
“Lùi một bước và tiến hai bước” là thủ đoạn và sách lược bất biến của người Trung Quốc. Trung Quốc sẽ không bao giờ quay đầu và biển Đông sẽ là một sự kiện lịch sử không bao giờ hết phức tạp. Hiện tại, Trung Quốc có thể đang chùng xuống nhưng có thể sẽ lại thổi bùng vấn đề lên sau Đại hội Đảng XVIII, khi bộ máy tổ chức kiện toàn. Do đó, chúng ta vẫn phải hết sức cảnh giác lưu ý với từng hành động của họ.
Đâu là giải pháp chiến lược của Việt Nam để đối phó với vấn đề sẽ còn kéo dài và diễn biến phức tạp này?
Hơn bao giờ hết, ViệtNamphải thể hiện thái độ cứng rắn của mình. ViệtNamphải tiếp tục thông tin để thế giới và nhân dân trong nước hiểu rõ hơn bản chất tranh chấp ở biển Đông. Mỗi người dân ViệtNamphải được trang bị đầy đủ kiến thức về chủ quyền biển đảo và luật quốc tế.
Hiện nay, công tác tuyên truyền của chúng ta đã được đẩy mạnh song vẫn còn nhiều hạn chế. Tôi cho rằng, không ít người ViệtNamchưa thực sự hiểu được bản chất của vấn đề, thậm chí ngay cả những khái niệm đơn giản nhất như: thềm lục địa, hải lý là gì? “Đường lưỡi bò” ra sao?… Chúng ta phải hiểu để có thái độ ứng xử hết sức bình tĩnh, tránh những hành động quá khích gây ảnh hưởng tới chính sách chung của Đảng và Nhà Nước.
Ngoài ra, ngư dân ta nên được tổ chức thành những tổ hợp đánh cá khi đánh bắt xa bờ.
Thử tưởng tượng, cả một tập đoàn với vài chục con tàu, làm sao Trung Quốc có thể làm được những chuyện phá hoại như đối với tàu Bình Minh và Viking 2. Tất nhiên, nhiều người dân của ta không làm theo phương thức này vì tư tưởng làm ăn riêng lẻ và tư lợi. tuy nhiên, Nhà nước phải kiên quyết đứng ra tổ chức vì cộng đồng và chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Nhà nước cần đứng ra bảo trợ, trang bị cho họ phương tiện tự bảo vệ, máy thông tin để liên lạc với đất liền khi xảy ra sự cố.
“Tin tưởng vào thế hệ thanh niên Việt Nam
Trong suốt quá trình trực tiếp tham gia đấu tranh bảo vệ chủ quyền dân tộc, theo ông còn có thông tin nào cần được tuyên truyền để người dân trong và ngoài nước hiểu hơn về chủ nghĩa bành trướng?
Có nhiều điều mà chúng ta chưa tiện nhắc tới vì tình đoàn kết, hòa hảo giữa hai dân tộc. Nhưng có một sự thật tôi có thể nhắc đến ở đây là sự kiện biển Đông năm 1988. Khi đó, hải quân Trung Quốc và hải quân ViệtNamđã xảy ra một vụ đụng độ.
Chúng ta đã chịu không ít tổn thất nặng nề. Nhiều chiến sĩ ưu tú của ViệtNamđã ngã xuống để bảo vệ vùng biển Tổ quốc. Chúng ta đã ứng xử bằng một thái độ hết sức mềm dẻo nhưng kiên quyết. Tuy nhiên, đối với những người lính như chúng tôi, những người trực tiếp chứng kiến đồng đội mình hy sinh thì đó là một nỗi đau tới tận cùng.
Là anh hùng LLVTND, một tấm gương đấu tranh gìn giữ nền độc lập dân tộc, ông có nhắn nhủ điều gì đối với hậu thế?
Để có được một đất nước ViệtNamtrọn vẹn và thống nhất như ngày hôm nay, bao thế hệ ViệtNamđã phải đổ cả núi xương, sông máu. Vì vậy, thế hệ trẻ hiện tại và tương lai phải có trách nhiệm để giữ gìn và cống hiến, làm cho nước Việt Nam ngày càng mạnh hơn, uy tín của Việt Nam ngày càng lớn hơn. Đặc biệt, chúng ta phải lấy nhiệm vụ phát triển kinh tế làm trọng tâm. Bởi nếu nền kinh tế của chúng ta yếu kém, chúng ta không mạnh lên thì chúng ta sẽ dễ dàng đối mặt với nguy cơ mất nước.
Thời gian qua, ông đánh giá như thế nào về thế hệ trẻ Việt Nam khi đứng trước sự an nguy của Tổ Quốc?
Tôi rất tin tưởng vào thế hệ trẻ ViệtNam. Khi tôi đi giao lưu, có nhiều ý kiến cho rằng: không thể tin vào thế hệ trẻ bây giờ. Nhưng theo tôi, họ đã quá sai lầm.
Thành tựu của đất nước ta trong mấy chục năm qua có sự đóng góp lớn lao của những người trẻ. Đặc biệt, khi dân tộc xảy ra xung đột, ảnh hưởng tới sự an nguy của Tổ quốc thì lòng tự trọng của thanh niên ViệtNamđược đẩy lên rất cao. Họ sẵn sàng dẹp bỏ tất cả mọi rào cản để hành động vì mục tiêu chung.
Vừa qua, tôi nhận thấy Đoàn Thanh niên đã tổ chức những chuyến đi dọc các bờ biển ViệtNam. Đó là một hành động rất hữu ích góp phần trang bị cho thế hệ trẻ hiểu hơn về vùng biển đảo quê hương và tăng cường sự gắn bó quân dân, giúp những người lính hải quân thêm ấm lòng và chắc tay súng.
Thiết nghĩ, các tổ chức, đoàn thể của ta nên tiếp tục hướng tới những hoạt động có ý nghĩa như vậy, vừa có tính chất giáo dục sâu sắc lại vừa làm “mềm” ngoại giao của ta.
Theo giaoduc.net

Đại tướng Lê Đức Anh: Nếu sợ thì mất chủ quyền

- "Không sợ thì mình có cách đấu tranh để vừa giữ được chủ quyền khu vực đó, vừa giữ được hòa khí. Cách đó phải học lịch sử. Kể cả lịch sử gần đây nhất" - Đại tướng, Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh trò chuyện với Bee về câu chuyện biển Đông.

Phải cố gắng tối đa để không xảy ra xung đột
Vài tuần trở lại đây, có những lình xình xung quanh câu chuyện biển Đông, như chuyện tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 02, tàu Trung Quốc tấn công tàu ngư dân trong lãnh hải Việt Nam. Ông có nghe chuyện đó không ạ?

Tôi có nghe. Nghe đài. Biết một số chuyện không vui.

Trong những trường hợp tương tự như thế này chúng ta phải làm gì, phản ứng thế nào cho đúng để đem lại lợi ích cho nhiều phía?


Phải đặt chủ quyền đất nước là sự quan tâm số 1. Đồng thời, ta phải sống hòa hiếu với nhân dân tất cả các nước.  Lợi ích của tất các bên sẽ được tôn trọng nếu quốc gia nào cũng tôn trọng chủ quyền, bảo vệ sự hòa hiếu, hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới.

Về chuyện Biển Đông, ta phải xem chủ quyền của ta tới đâu. Và chủ quyền các nước trong khu vực tới đâu. Phải đối chiếu lại với quy định của luật pháp quốc tế. Chỗ nào của ta, ta phải giữ.  

Nếu chúng ta tôn trọng quy định chung mà các nước trong khu vực không tôn trọng thì chúng ta phải làm gì?
Phải đối thoại với người ta trước khi đưa ra Tòa án quốc tế.  Phải cố gắng tối đa để không xảy ra xung đột vũ trang. Trừ trường hợp mất chủ quyền, phải bảo vệ. Bảo vệ Chủ quyền là số 1.  Giữ gìn Hữu nghị với họ là số 2.  Nói chung, phải giữ gìn Hòa bình, ổn định để phát triển. Ta nói họ không nghe mà họ quyết vi phạm thì ta phải tự vệ, tự vệ để bảo vệ chủ quyền.

Nước nhỏ mà để mất nhà, mất cửa, mất chủ quyền thì còn gì mà sống


Thưa ông, người ta nói rằng nhỏ thì khó mạnh. Mà yếu thì làm việc gì cũng khó. Với tư cách là một người dân nước nhỏ ở cạnh nước lớn, ý kiến của ông như thế nào?

Nhỏ không có nghĩa là yếu. So với Ấn độ, Trung Quốc mình cũng là nước nhỏ. So với Mỹ, mình cũng là nước nhỏ. So với EU, mình cũng là nước nhỏ.

Nhưng nước nhỏ mà để mất nhà, mất cửa, mất chủ quyền thì còn gì mà sống.

Ngày xưa các ông đánh Mỹ có bao giờ có cảm giác là nước nhỏ đánh nhau với nước lớn không?


Có biết.

Có sợ không ạ?


Không sợ. Sợ làm sao thắng được.

Và chiến thắng cuối cùng là "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào" - nghĩa là đánh cho Mỹ không còn xâm lược chứ không phải là tiêu diệt hoàn toàn. Chiến thắng đó thể hiện tinh thần là bảo vệ chủ quyền và chiến thắng ngoại xâm.

Ông đã từng đảm nhận vị trí Bộ trưởng Quốc phòng ở giai đoạn mà giữ được hòa khí và chủ quyền dân tộc là chuyện không dễ. Ông có thể chia sẻ kinh nghiệm?
Đó là một quá trình khó khăn. Không sợ thì sẽ  hiểu và hóa giải được mọi vấn đề. Nếu SỢ  thì mất. Mất chỗ mà người ta muốn chiếm. Không SỢ thì mình có cách đấu tranh để vừa giữ được chủ quyền, vừa giữ được hòa khí.

Cách đó phải học lịch sử. Kể cả lịch sử gần đây nhất. 

Nói về kinh nghiệm của một nước nhỏ bé ở cạnh một nước lớn, ông thích chương nào của lịch sử dân tộc? Thời Ngô Quyền, Bạch Đằng, thời Trần, thời Lý, hay thời Quang Trung – Nguyễn Huệ...?


Thời nào cũng hay. Thời Lý hay, thời Trần giỏi, thời Nguyễn Huệ đặc sắc. Nhưng đỉnh cao là thời đại Hồ Chí Minh.

Phải học từ lịch sử cách làm sao bảo vệ được Tổ quốc mà không bị tổn thất nhiều. Điều đó là rất quan trọng.

Công khai thông tin là cách thể hiện sự đồng thuận và sức mạnh toàn dân

Thưa ông, cảm nghĩ của ông về câu chuyện biển Đông tại thời điểm này như thế nào?


Tin là ta thuộc về lẽ phải. Thế giới bây giờ công khai rồi, có ai giấu được ai chuyện gì đâu, nữa là chuyện trên biển Đông. Nước nào dù có ý đồ không tốt đi nữa cũng phải tôn trọng lẽ phải. Không giấu được. Giấu thì người ta lại tưởng mình sợ.

Và vì thế, với thế giới ta phải công khai minh bạch và nói rõ thông tin, không những các nước Đông Nam Á sẽ đồng tình và đấu tranh mà cả thế giới nữa. Ngay cả người dân Trung Quốc họ hiểu, họ ủng hộ và tôn trọng lẽ phải. Không phải người dân Trung Quốc bất chấp lẽ phải đâu. Họ cũng muốn hòa hiếu, muốn ổn định, hòa bình.

Phải tin tưởng ở người dân mà kiên trì đấu tranh công khai. Công khai thông tin là cách thể hiện sự đồng thuận và sức mạnh toàn dân.

Lương Thị Bích Ngọc

Chuyên gia TQ kêu gọi chiến tranh biển

Xã luận của báo Trung Quốc nói Việt Nam gây căng thẳng trên Biển Đông
Phân tích gia Trung Quốc đã có bài trên Hoàn cầu Thời báo của Đảng Cộng sản Trung Quốc kêu gọi dạy Việt Nam và Philippines 'bài học đạo đức' bằng vũ lực.
Bài báo bằng tiếng Hoa được đăng hôm 27/9 và bản dịch tiếng Anh sau đó đã xuất hiện và lan tỏa trên mạng internet.
Xã luận mang tựa đề "Thời cơ tốt để có hành động quân sự tại Nam Hải" trên báo đảng là của tác giả Long Tao, phân tích gia chiến lược của tổ chức phi chính phủ Quỹ Năng lượng Trung Quốc và cũng là chuyên gia của Trung tâm An ninh Phi truyền thống và Phát triển Hòa bình của Đại học Triết Giang.
Ông Long viết: "Đừng lo ngại về các cuộc chiến quy mô nhỏ; đây là cách tốt nhất để giải tỏa nguy cơ chiến tranh.
"Đánh vài trận nhỏ là có thể tránh được những trận đánh lớn."
Phân tích gia này cũng nói Trung Quốc cần chĩa mũi nhọn vào Việt NamPhilippines, hai nước mà họ cho là đang tìm cách quốc tế hóa vấn đề Biển Đông và kéo Hoa Kỳ vào cuộc.
"Tôi cảm thấy trong cuộc chiến trên Biển Nam Trung Hoa, chúng ta cần thu hẹp phạm vi tấn công và tập trung vào những nước đang ra vẻ ta đây nhất hiện nay, Philippines và Việt Nam.
"Giết những con gà để dọa bầy khỉ."
Mặc dù vậy ông Long Tao cũng nói Trung Quốc phải dùng các biện pháp hòa bình để ngăn cản các nước xâm phạm lãnh hải của Trung Quốc.
'Cướp' đảo
Bài trên Hoàn cầu Thời báo cũng viết: "Cội nguồn của "vấn đề" Biển Nam Trung Hoa là chế độ Nam Việt Nam và chính quyền độc lập ở Việt Nam sau đó.
"Việt Nam xâm phạm đảo Nam Sa [Việt Nam gọi là Trường Sa] của Trung Quốc và đòi hỏi chủ quyền đối với đảo Tây Sa.
"Ngoài việc trừng phạt chế độ Nam Việt Nam với cuộc phản công trên đảo Tây Sa và cuộc tấn công tự vệ trên đất liền, Trung Quốc chưa bao giờ ngăn chặn được sự xâm lược công khai của Việt Nam ở Biển Nam Trung Hoa."
Ông Long cũng nói Việt Nam đã khuyến khích các nước khác "cướp" đảo Trường Sa của Trung Quốc và giờ lại kéo Hoa Kỳ cùng một số nước nhỏ khác nhằm đe dọa Trung Quốc.
Liên quan tới Philippines, bài báo nói Philppines tự coi họ là con muỗi và nói rằng họ không sợ con voi Trung Quốc.
Tác giả Long Tao viết: "Đúng là con voi không nên dẫm bẹp con muỗi nhưng con muỗi có nên đốt con voi hay không?
"Hơn nữa, liệu con muỗi có nên mời "con đại bàng già" tới để củng cố ý chí?
"Nhiều nước đang liên tục có những cuộc tập trận lớn và như vậy Trung Quốc có lý do hoàn toàn thích đáng để tấn công trả đũa."
Học giả Trung Quốc Long Tao
"Tôi cho rằng các nước đang xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc.
"Nhiều nước đang liên tục có những cuộc tập trận lớn và như vậy Trung Quốc có lý do hoàn toàn thích đáng để tấn công trả đũa."
Học giả Long Tao nhắc tới hành động của Nga hồi năm 2008 ở Biển Caspi và nói hành động của các nước lớn có thể gây sốc tạm thời với hệ thống quốc tế nhưng về lâu dài có thể tạo sự ổn định trong khu vực và thúc đẩy hòa giải chiến lược.
Dầu lửa
Ông Long Tao nói Trung Quốc không nên học theo cách hành xử của Hoa Kỳ ở Iraq, Afghanistan hay Libya mà cần chiến đấu linh hoạt và rất có thể biến nó thành chiến dịch giáo dục đạo đức, dùng chiến thuật để thu phục các nước.
Học giả Long Tao nói chiến trận ở Biển Đông sẽ tạo ra những đảo lửa
Phân tích gia này nhận định Hoa Kỳ vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi cuộc chiến chống khủng bố và về cơ bản không thể bắt đầu cuộc chiến thứ hai ở Biển Nam Trung Hoa.
"Quan điểm cứng rắn của Hoa Kỳ chỉ là trò lừa phỉnh."
Chuyên gia tại Quỹ Năng lượng Trung Quốc cũng nói hiện có hơn 1.000 giếng dầu khí ở Biển Đông trong đó không có giếng nào của Trung Quốc.
Bên cạnh đó, ông nói, hiện Nam Sa (Trường Sa) có bốn sân bay mà Trung Quốc không có sân bay nào.
Bài xã luận của Hoàn cầu Thời báo nói rằng chưa cần biết ai thắng, ai thua, chiến trận trên Biển Đông sẽ tạo ra những hòn đảo lửa và các công ty dầu khí phương Tây sẽ phải rời đi.
Phần kết của bài báo nói Trung Quốc cần có quyết tâm cho một trận chiến lớn và thực sự chuẩn bị cho một cuộc chiến quy mô nhỏ vì như vậy "Trung Quốc đã cho những nước khác sự lựa chọn giữa hòa bình và chiến tranh."